Gia Đình Bách Khoa Và Một Lê
Ngộ Châu Khác
25/06/2021
https://vietbao.com/a308573/gia
https://vietbao.com/images/file/f6SLHFc42QgBAJEb/01-chau.jpg
Hình
1: Lê Ngộ Châu sống và
làm việc ngay tại toà soạn Bách Khoa, 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn. Trước và sau
1975, chưa ai được nghe anh Lê Châu kể lể về những tháng năm thăng trầm với
tờ báo Bách Khoa. Tranh luận về “công lao Bách Khoa” nếu có, là từ bên
ngoài, và không là mối bận tâm của Lê Châu.[tư liệu Ngô Thế Vinh, hình chụp
05/03/1984]
TIỂU SỬ LÊ NGỘ
CHÂU
Tuổi Quý Hợi,
sinh ngày 30/12/1923 tại làng Phú Tài, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam vùng đồng bằng
sông Hồng. Có thời gian theo kháng chiến chống Pháp. Tới năm 1951 Lê Ngộ Châu hồi
cư về Hà Nội, dạy học, làm hiệu trưởng một trường trung học tư thục ở tuổi 29.
Di cư vào Nam 1954, gia nhập Hội Văn hoá Bình dân với một hệ thống Trường Bách
khoa Bình Dân ở các tỉnh miền Nam và Hội VHBD có xuất bản một nội
san với tên Bách Khoa Bình Dân.
LỊCH SỬ BÁO BÁCH
KHOA
-- 1957 một tạp
chí có tên Bách Khoa do hai ông Huỳnh Văn Lang, Hoàng Minh
Tuynh sáng lập, xuất bản mỗi tháng hai kỳ, với quan niệm là: “Diễn đàn
chung của tất cả những người tha thiết đến các vấn đề Chính trị, Kinh tế, Văn
hoá, Xã hội.”
Nguồn tài chánh
ban đầu của Bách Khoa là do đóng góp của một nhóm 30 người, gồm những nhà giáo,
nhà báo, chuyên viên hay công tư chức cao cấp thời bấy giờ; mỗi người góp 1.000
đồng (lương tháng hàng giám đốc lúc đó khoảng 5.000 đồng) , tổng cộng được
29.500 đồng, một số tiền phải nói là khá lớn (theo TS Phạm Đỗ Chí, thì
1 US$ = 35 VN$ và số tiền ấy tương đương với hơn 20 lạng vàng theo thời giá
1957 lúc bấy giờ). Tên của họ được in nơi bìa sau của những số báo
Bách Khoa giai đoạn đầu, có thể kể: Lê Đình Chân, Tăng Văn Chỉ, Đỗ Trọng Chu, Lê
Thành Cường, Trần Lưu Dy, Lê Phát Đạt, Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Lê Giang, Phạm Ngọc
Thuần Giao, Nguyễn Hữu Hạnh, Lê Văn Hoàng, Nguyễn Văn Khải, Phạm Duy Lân, Nguyễn
Quang Lệ, Trần Long, Bùi Bá Lư, Dương Chí Sanh, Nguyễn Huy Thanh, Bùi Kiến
Thành, Hoàng Khắc Thành, Phạm Ngọc Thảo, Bùi Văn Thịnh, Nguyễn Tấn Thịnh,Vũ Ngọc
Tiến, Võ Thu Tịnh, Nguyễn Tấn Trung, Phạm Kim Tương, Hoàng Minh Tuynh, Bùi Công
Văn. (Chỉ có 29 tên, một người đóng 500 đồng, không được nêu tên trong danh
sách này).[5]
Có tác giả cho
rằng nhóm 30 người đó họ chỉ góp tiền chứ “không tham gia viết lách gì
cho Bách Khoa” điều này không hoàn toàn đúng, vì chúng ta có thể thấy
ngay từ mấy số đầu Bách Khoa đã có các bài viết mà tác giả cũng có tên trong
danh sách những người góp vốn cho Bách Khoa như: Phạm Ngọc Thảo (Thế nào là
Quân đội mạnh, BK số 1), Hoàng Minh Tuynh (Nên để trẻ được tự do hay nên
nghiêm khắc với trẻ), Bùi Văn Thịnh (Một giai đoạn mới chính sách kinh tế,
BK số 1 & 2], Đỗ Trọng Chu (Trung cộng tấn công Hoa kiều ở Đông Nam
Á, BK số 2), Phạm Duy Lân (Bao giờ trời lại sáng, BK số 3, Chiến tranh tương
lai, BK số 24), Nguyễn Huy Thanh (Vấn đề tài trợ những tiểu xí nghiệp, BK số 3,
Quỹ tiết kiệm, BK số 5), Tăng Văn Chỉ (Quân bình giá vật, một biện pháp tạm thời
và rất cần để chấn hưng kinh tế, BK số 6), Võ Thu Tịnh (Tìm hiểu quốc cơ:
Pantja Sila của cộng hoà Nam Dương, BK số 7)…
Chủ nhiệm ban đầu
của Bách Khoa là Huỳnh Văn Lang, sinh ngày 26/7/1922, hơn Lê Ngộ Châu một tuổi,
gốc người Nam quê ở Trà Vinh, vùng đất cực nam hạ lưu sông Cửu Long, là con một
đại điền chủ giàu có, trong một gia đình Thiên Chúa giáo toàn tòng, từng
được du học Pháp, Canada và Mỹ rất sớm, HVL được ông Ngô Đình Diệm mời về
và là nhân vật số 2 của đảng Cần Lao với chức danh Tổng bí thư Liên Kỳ Bộ Nam Bắc
Việt, là một đảng của chính quyền thời bấy giờ. Do HVL lúc đó đang làm Giám đốc
Viện Hối Đoái, nên tờ báo Bách Khoa có những thuận lợi, dễ dàng lấy được nhiều
trang quảng cáo đắt giá từ các ngân hàng, và các công ty thương mại lớn như
Shell, BGI, Air Vietnam, Air France… nên trong mấy năm đầu, với sẵn một số vốn
lớn và có tiền quảng cáo hàng tháng, báo Bách Khoa có khả năng sống độc lập về
tài chánh.
https://vietbao.com/images/file/DeJqHlc42QgBAK04/02-chau.jpg
Hình
2: Bách Khoa số 1, mẫu
bìa trước rất đơn giản, chỉ là Mục lục các bài viết, bìa sau là danh sách tên
29 người đóng góp tiền mỗi người 1.000 đồng, có một người đóng 500 đồng,tổng cộng
được 29.500 đồng, là số vốn khá lớn khởi đầu cho tạp chí Bách Khoa. Không chỉ
góp tiền, một số còn viết bài cho Bách Khoa. [5]
Theo ông Huỳnh Văn Lang thì: “Người
thư ký toà soạn ban đầu của Bách Khoa là bà Phạm Ngọc Thảo hay Phạm Thị Nhiệm,
là em gái của GS trường Petrus Ký Phạm Thiều đã tập kết ra Bắc. Bà Phạm Ngọc
Thảo là người đã mời được một số cây bút cộng tác ban đầu cho Bách
Khoa như học giả Nguyễn Hiến Lê, BS Nguyễn Văn Ba, BS Dương Quỳnh Hoa và
nhứt là nhà văn Nguiễn Ngu Í, rồi chính anh Nguiễn Ngu Í, đã giới thiệu thêm Bùi
Giáng, Nguyễn Thị Hoàng và nhiều tác giả khác. Bà Thảo cũng có viết một ít bài
trong các số báo đầu với bút hiệu là Minh Phong.” [6]
Như vậy,
trong khoảng năm đầu 1957-1958, Lê Ngộ Châu chưa thực sự có vai trò quan trọng
trong toà soạn báo Bách Khoa. Nhưng rồi sau này, phải tới Số Kỷ niệm Mười
năm, Bách Khoa 241-242 [15/1/1957-15/1/1967], chúng ta mới biết đích thực
được ngọn nguồn của tờ Bách Khoa. Ngay nơi trang mở đầu, sau khi nhắc lại mấy
câu thay lời phi lộ trên số Bách Khoa số ra mắt, có lẽ không ai khác hơn là Lê
Ngộ Châu trong vai chủ nhiệm thay thế ông Huỳnh Văn Lang đã viết những dòng chữ
như sau và ký tên Bách Khoa Thời Đại:
“Hồi ấy chiến tranh
chấm dứt từ lâu, tiếng súng bình định ở một vài địa phương không còn nữa, Quốc
hội Lập hiến được bầu, Hiến pháp đương soạn thảo, những người có nhiệt tâm thiện
chí ai cũng náo nức muốn đem trí óc, sức lực của mình cố gắng làm cho miền Nam
tự do thực giàu mạnh, phương sách hiệu quả nhất để ngăn ngừa cộng sản nảy nở và
xâm nhập. Một nhóm anh em gồm một số trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, công
tư chức, trong trào lưu hăng say đó, cũng muốn có một diễn đàn độc lập để
góp ý với chính quyền, bày tỏ nhận xét, cảm nghĩ của mình trong công cuộc
hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hưng xứ sở. Diễn đàn ấy, tạp chí với
ý hướng ấy, xin xuất bản trong nửa năm trời mà vẫn không được phép. Về sau đành
phải mượn lại giấy phép một nội san của Hội Văn Hoá Bình Dân – tờ Bách Khoa
Bình Dân – nên vì vậy tờ báo của quý bạn mới mang danh hiệu Bách Khoa và mãi tới
ngày 15/1/1957 mới ra mắt bạn đọc được.”
Và như vậy đã rất
rõ, đâu là cội nguồn của tờ báo, Bách Khoa đã phải khởi đầu bằng giấy phép của
một “nội san” thuộc Hội Văn Hoá Bình Dân.
Sự kiện nhóm sáng lập
Bách Khoa, trong suốt nửa năm mà không xin được giấy phép ra báo – khi mới bước vào
năm thứ hai của nền đệ Nhất Cộng Hoà, đã hé lộ ra ý hướng của một nền “dân
chủ tập trung” của chính quyền thời bấy giờ và hầu như được mọi người chấp nhận – và cũng còn quá sớm để
nói tới manh nha một chế độ độc tài về sau này.
-- 1957, địa chỉ
ban đầu của toà soạn Bách Khoa là 55 Bà Huyện Thanh Quan, Phòng 42, Sài Gòn, địa
chỉ thứ hai là nhà in Văn Hoá cũng là nơi in báo Bách Khoa, 412-414 Trần Hưng Đạo,
Sài Gòn,và phải từ số báo 40 (1/9/1958), Bách Khoa mới chính thức có một toà soạn:160
Phan Đình Phùng, Sài Gòn, được coi như một địa chỉ dấu ấn / landmark lâu
dài nhất của Bách Khoa trong lịch sử báo chí miền Nam.
-- 1958, khi Huỳnh
Văn Lang đi tu nghiệp ở Mỹ, Lê Ngộ Châu được ông Hoàng Minh Tuynh – lúc đó đang
làm Phó Giám đốc Viện Hối Đoái, giới thiệu với chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang vào làm
cho Bách Khoa như một thư ký toà soạn. Trên thực tế từ đây, Lê Ngộ Châu là người
trực tiếp điều hành tờ Bách Khoa, cho dù chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang vẫn đứng tên.
-- 1963, sau cuộc
đảo chánh 1/11/1963 của quân đội, hai anh em ông Ngô Đình Diệm / Ngô Đình Nhu bị
thảm sát, chấm dứt 9 năm nền Đệ Nhất Cộng Hoà, ông Huỳnh Văn Lang bị bắt vì có
liên hệ làm kinh tài cho Đảng Cần Lao; một thời gian sau cho tới tháng 2 năm
1965, ông HVL mới không còn đứng tên chủ nhiệm trên manchette Bách
Khoa.
-- 1965, trong
số Kỷ niệm 8 năm, cũng là số Xuân Ất Tỵ, Bách Khoa 193-194 đã có nhiều bước cải
tiến: nội dung ngày càng đa dạng và cân bằng hơn, với quan niệm của chủ nhiệm
Lê Ngộ Châu là: “tờ báo trong năm ra nhiều số đặc biệt hướng về một chủ
điểm như số xuất bản trong dịp đản sinh đức Phật… Và thay vì ra một số về tôn
giáo thì Bách Khoa đăng một loạt bài trong nhiều kỳ lên tiếp về các tôn giáo đã
phát sinh hay bắt rễ trên đất nước chúng ta mà ít người biết rõ, từ đạo Cao
Đài, Phật giáo Hoà Hảo đến đạo Ba-Hai, Hồi Giáo… Thay vì ra một số về cuộc đời
sự nghiệp các nhà văn hiện tại, thì Bách Khoa giới thiệu cùng bạn đọc trên mỗi
số báo về “Sống và Viết Với” của một nhà văn, vấn đề góp lại sau này thành
được một tác phẩm mấy trăm trang chứ không phải chỉ thu gọn trong mấy chục
trang của một số đặc biệt.”
Về hình thức,
Bách Khoa có một vóc dáng mới mẻ, các trang báo trình bày sáng sủa, với những mẫu
bìa nghệ thuật do các hoạ sĩ danh tiếng thiết kế như Phạm Tăng, Tạ Tỵ, cùng với
các hoạ sĩ trẻ tài năng như Lâm Triết (huy chương vàng Triển lãm Hội Hoạ Mùa
Xuân 1962), Nghiêu Đề (huy chương bạc Triển lãm Hội Hoạ Mùa Xuân 1961), và hoạ
sĩ Văn Thanh sau này.
* *
https://vietbao.com/images/file/DIxiIlc42QgBAJNd/w600/03-a-chau.jpg
Hình
3a: từ trái, những mẫu
bìa đẹp của Bách Khoa của các hoạ sĩ danh tiếng: Tạ Tỵ, Phạm Tăng, Văn
Thanh. [5]
https://vietbao.com/images/file/Rn--Jlc42QgBAEcN/w600/03-b-chau.jpg
Hình
3b: mẫu bìa của
hai hoạ sĩ trẻ tài ba; từ trái Nghiêu Đề, huy chương bạc 1961, và Lâm Triết
huy chương vàng 1962 trong các cuộc Triển lãm Hội Hoạ Mùa Xuân
1961-1962. [5]
BÁCH KHOA VỚI NHIỀU
TÊN GỌI
Tuỳ vị trí mỗi
người khi đến với Bách Khoa mà đặt cho những tên gọi khác nhau, thông thường nhất
là “nhóm” Bách Khoa, nhà văn nhà báo Nguiễn Ngu
Í thì dí dỏm gọi đó là “động” Bách Khoa, với số
nhà văn trẻ khởi nghiệp và thành danh từ Bách Khoa thì gọi đó là “lò”
Bách Khoa – cũng là nhóm chữ của nhà văn nữ Trùng Dương trong
bài viết: Bách Khoa, nơi từ đó [2] nhưng
có lẽ tiếng gọi phổ quát và thân thương nhất vẫn là “gia đình” Bách
Khoa, do cái không khí thân ái ấm cúng mà anh chị Lê Ngộ
Châu – Nghiêm Ngọc Huân đã tạo được cho những ai đã từng đến và sinh hoạt với
toà soạn Bách Khoa.
Lê Ngộ Châu đã
mở ra một con đường thênh thang cho Bách Khoa. Và kể từ số 195 Tân Niên
15/2/1965 tờ báo nay mang một tên mới với thêm hai chữ thời đại: Bách
Khoa Thời Đại và chính thức đứng tên chủ nhiệm là Lê Ngộ Châu, vẫn là
người tiếp tục điều hành và mở mang tờ Bách Khoa. Những cuộc phỏng vấn
như một kho dữ liệu quý giá không chỉ với các nhà văn, nhà thơ mà còn mở rộng
ra các lãnh vực văn hoá nghệ thuật khác như giới hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu…
vẫn do Nguiễn Ngu Í với kiến thức và tài hoa thực hiện, là một mặt mạnh khác của
Bách Khoa.
https://vietbao.com/images/file/qxejKlc42QgBAMZu/04-chau.jpg
Hình
4: Hình bìa Bách Khoa
số 195 (15/2/1965), với một tên mới Bách Khoa Thời Đại.
Từ địa chỉ 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn,
với thời gian, nhà báo Lê Ngộ Châu trong vai trò một chủ nhiệm kiêm chủ bút tài
năng của Bách Khoa, tên tuổi anh càng ngày càng toả sáng. Các cây bút cộng tác
lâu năm với Bách Khoa và cả những cây viết mới về sau này, đã có cùng một nhận
định: Lê Ngộ Châu là người có kiến thức rộng, khiêm tốn và trầm tĩnh
trong cách ứng xử, được xem như “linh hồn” của báo Bách Khoa cho tới năm 1975.
Tuy Bách Khoa từng
được đánh giá là một vùng xôi đậu: quốc cộng và cả thành phần thứ ba – theo
ngôn từ của nhà thơ Nguyên Sa. Ví von của Nguyên Sa đúng cho cả hai thời kỳ của
Bách Khoa.
-- Thời
kỳ đầu, với chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang, đã có Phạm Ngọc Thảo sinh
năm 1922 [cùng năm sinh với Huỳnh Văn Lang], một cây viết chuyên về các vấn đề
quân sự cho Bách Khoa, là một cán bộ CS cao cấp nằm vùng, một chuyên viên
khuynh đảo, có liên hệ tới 2 cuộc đảo chánh của cả 2 nền Cộng Hoà [mất năm
1965]; BS Dương Quỳnh Hoa sinh năm 1930, tốt nghiệp ĐH Y khoa
Paris, gia nhập Đảng CS Pháp rồi Đảng CS Đông Dương, có viết bài về Y khoa cho
Bách Khoa trong mấy số đầu, sau này bà DQH đã tham gia sáng lập Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam và giữ chức Bộ trưởng Y tế của Chính
phủ Các mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam, sau 1975 bà từ bỏ đảng CS [mất năm
2006], Phan Lạc Tuyên sinh năm 1930 là nhân vật quân sự quan
trọng số 3 tham gia cuộc đảo chánh thất bại 11/11/1960 của nhóm Nguyễn Chánh
Thi - Vương văn Đông, Phan Lạc Tuyên là nhà thơ với bài Tình quê hương
Anh về qua xóm nhỏ được Đan Thọ phổ nhạc rất nổi tiếng khắp miền Nam
lúc bấy giờ. Sau này Phan Lạc Tuyên theo CS ra Bắc, được du học Ba Lan tốt nghiệp
Tiến sĩ Dân tộc học, đi theo con đường học thuật, nghiên cứu Phật học rồi xuất
gia với pháp danh Nguyên Tuệ [mất năm 2011].
-- Thời kỳ hai, với chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, cũng
là lâu dài nhất, nhóm Bách Khoa đã có Người Tù Võ Phiến chống
cộng, bên cạnh Bút Máu Vũ Hạnh / Cô Phương Thảo
cán bộ CS nằm vùng, cùng với các cây bút có khuynh hướng trung dung hay còn được
gọi là thành phần thứ ba như học giả Nguyễn Hiến Lê, LM Nguyễn
Ngọc Lan, nhà báo Nguiễn Ngu Í / Nguyễn Hữu Ngư… Lê Ngộ
Châu đi ra từ kháng chiến cũng được xem như thành phần thứ ba, nhưng LNC đã
khéo léo dung hoà được mọi khuynh hướng chính trị, tôn giáo khác biệt để Bách
Khoa càng ngày càng quy tụ được nhiều cây bút có uy tín thuộc cả ba miền Nam,
Trung, Bắc, thuộc các thế hệ già trẻ tiếp nối.
Về nội dung, với
3 tiết mục chính: Biên khảo, Nghị luận, Văn nghệ có thể nói
Bách Khoa đã giới thiệu được khá đầy đủ các khía cạnh của xã hội miền
Nam, cả tiếp cận với các phong trào tư tưởng mới từ Tây phương, từ văn học,
khoa học tới triết học trong và ngoài nước qua ngót hai thập niên [từ 1957 tới
1975], xuyên suốt hai nền Cộng Hoà miền Nam Việt Nam.
Đáng kể hơn nữa,
Lê Ngộ Châu còn phát hiện thêm những cây viết trẻ và đa số đều thành danh những
năm về sau này. Với các cây bút nam như Lê Tất Điều, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc
Tuấn, Thế Uyên, Nguyễn Mộng Giác, và các cây bút nữ như Tuý Hồng, Nguyễn Thị
Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ…
Lê Ngộ Châu tuy
không phải là văn gia – chữ của Võ Phiến, nhưng anh là một chủ nhiệm quản trị
giỏi, một chủ bút cũng rất bén nhạy với thơ văn. Vào khoảng năm 1970 khi toà soạn
Bách Khoa vừa nhận được bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu
Định, một tên tuổi còn xa lạ với Lê Ngộ Châu nhưng do thấy bài thơ quá hay
với hình ảnh nhẹ nhàng về phố núi Pleiku, Lê Châu đã nhờ Trí Đăng chở tới nhà
nhạc sĩ Phạm Duy – cũng là bạn thân của Lê Châu từ hồi Kháng Chiến trong
Liên Khu Tư, lúc đó Phạm Duy đang ở cư xá Chu Mạnh Trinh ngã tư Phú Nhuận gần hồ
tắm Chi Lăng, nơi quy tụ nhiều gia đình nghệ sĩ tới ở như Năm Châu, Nguyễn Mạnh
Côn, Duyên Anh, Minh Trang, Kim Tước… và Lê Châu đề nghị Phạm Duy phổ nhạc. Chỉ
hai ngày sau Phạm Duy đã chắp cánh cho bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ bằng
một bản nhạc cùng tên và được phát ngay trên đài Phát thanh Sài Gòn với giọng
ca vượt thời gian của Thái Thanh. Phổ nhạc thơ là một khía cạnh tài năng khác
trong gia tài âm nhạc của Phạm Duy.
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG
BÁCH KHOA:
-- Số 1 Bách
Khoa: số ra mắt 15/1/1957, là một bán nguyệt san, ngay nơi trang nhất có
đăng, Thay Lời Phi Lộ:
“Xây dựng nước nhà về
toàn diện là nhiệm vụ chung của mọi người, trong đó việc góp phần sáng kiến cá
nhân, dù đúng, dù sai, đều có ích lợi, miễn là tư tưởng ấy xuất phát từ một ý
muốn tốt và thành thực. Một quốc gia nếu chỉ có một nền kinh tế vững chắc
chưa đủ. Thêm một trình độ chính trị cao cũng chưa hoàn toàn. Một quốc
gia cần phải là một tổ hợp tất cả: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Xây dựng
một nước Việt Nam hẳn là xây dựng đủ các ngành, các khoa, các phương diện.
Với quan niệm như thế, tạp chí Bách Khoa ra đời.” [5]
Thay Lời Phi Lộ đó như là một tuyên ngôn của tờ Bách Khoa, đồng thời cũng phản
ánh đường lối của nhóm Bách Khoa lúc bấy giờ.
Mấy số báo Bách
Khoa đầu tiên chủ yếu là đăng các bài của nhóm chuyên viên trong Hội
Nghiên cứu Kinh tế Tài chánh của ông Huỳnh Văn Lang.
Học giả Nguyễn
Hiến Lê, trong cuốn hồi ký Đời Viết văn của tôi – Chương 20,
ông viết: “Trong lịch sử báo chí nước nhà, tờ Bách Khoa có một địa vị đặc
biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà
sống được mười tám năm, từ 1957 đến 1975.” [hết trích dẫn]
Nhận định của học giả
Nguyễn Hiến Lê: “Bách Khoa không ủng hộ chính quyền” là không hoàn toàn đúng ở
giai đoạn một của tờ báo Bách Khoa [ từ 1957 tới 1963 ] khi ông Huỳnh Văn Lang
còn đứng tên trực tiếp điều hành tờ báo.
Ở giai đoạn một,
thái độ thân chính quyền là phần rất đậm nét của tạp chí Bách Khoa, điều đó không có gì đáng ngạc nhiên vì hai ông Huỳnh Văn Lang, Hoàng
Minh Tuynh và nhóm chủ chương đang là các công chức cao cấp của chính quyền
thời bấy giờ. Ngay từ Bách Khoa số 1, nơi cuối các trang báo trống
thường là nơi trích dẫn các danh ngôn cổ kim, thì đã có 5 trang (trang 8, 29,
39, 43, 62) là các câu trích dẫn tư tưởng Ngô Đình Diệm từ những bài diễn văn
đâu đó của vị Tổng thống đương thời:
-- BK1 trang 8,
ngay phía dưới câu trích dẫn của Đức Hồng Y Saliège, là tư tưởng của TT Ngô
Đình Diệm : “Chúng ta quyết tâm xây dựng Quốc gia Việt Nam trên những
nền tảng mới. Lấy nhân dân là cương vị, lấy tự do dân chủ là phương châm, lấy
công lý xã hội làm tiêu chuẩn.”
-- BK1, trang 29: “Những chủ nghĩa cá nhân tư lợi
không đếm xỉa gì tới công lý xã hội, cũng như chủ nghĩa độc tài chuyên chế
không đếm xỉa gì tới phẩm giá và tự do của con người , đều là những con đường dẫn
tới đoạ đày, nô lệ.” TT Ngô Đình Diệm
-- BK1, trang 39: “Những cố gắng của chúng ta phải nhằm mục
phiêu cải thiện đời sống quốc dân, nâng đỡ các giới cần lao, nhất là nông dân,
san bằng những nỗi bất công, trừ diệt mọi mầm áp bức.” TT Ngô Đình
Diệm
-- BK1, trang
43 cũng ngay phía dưới câu trích dẫn của Đức Hồng Y Saliège, là tư tưởng của TT
Ngô Đình Diệm:“Các anh em phải tận tâm săn sóc tới cuộc sinh hoạt hàng
ngày của đồng bào, luôn luôn tìm hiểu nhu cầu và nguyện vọng của đồng bào, để
ân cần giúp đỡ về mọi phương diện.”
-- BK1 trang
62: “Dân muốn thì quân nghe, quân làm thì dân giúp. Tình đồng bào và
quân đội quả là tình cá nước. Quân dân nhất trí là nền tảng của chính
nghĩa.” TT Ngô Đình Diệm
Và nhất là mấy
bài Quan điểm trên báo Bách Khoa ký tên Chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang phản ảnh rất
rõ quan điểm của chính quyền đệ Nhất Cộng Hoà mà ông HVL đang tham gia, như:
Trên số Bách Khoa 43
(15/10/1958), chuẩn bị chào mừng cái Tết thứ Ba của nền đệ Nhất Cộng Hoà
[26/10/1955 - 26/10/1958], ông Huỳnh Văn Lang
có một bài viết với tiêu đề “Những Kẻ Phá Hoại Chế Độ” ,
ông HVL đã bộc trực chấp bút viết: “Họ không phải là những người của
bên kia, mà là những người bên này của mặt trận. Họ âm thầm sinh hoạt, gián tiếp
tàn phá, ít người lưu ý. Họ càng nguy hại hơn nữa không phải ở cái chỗ người
xung quanh không quan tâm tới họ, mà họ lại còn lầm lẫn cho mình vẫn là chiến
sĩ của chính nghĩa, là rường cột của chế độ có khi là ân nhân của đồng bào nữa.” Và
ai cũng hiểu rằng lúc ấy ông Huỳnh Văn Lang đang lên án gay gắt mấy
đảng phái quốc gia – những phe phái không cùng chính kiến với chính quyền TT
Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ.
Cũng trong năm
1958 đó, độc giả Bách Khoa đã không thể không chú ý tới mấy Thông báo của Nhóm
Văn Hoá Ngày Nay do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương, và
thông báo này đã đăng liên tiếp trên các số Bách Khoa 31, 33, 34 với nội dung
như sau:
Nhóm Văn Hoá Ngày
Nay “Đã nộp đơn xin ra dưới hình thức một tuần báo, nhưng sau mấy tháng
chưa được phép, sợ các độc giả mong chờ nên chúng tôi dự định cho ra thành từng
tập, kiểu “Loại Giai Phẩm” (trích Bách Khoa số 31,
15/4/1958). [5]
Một tên tuổi
văn hoá và chính trị lớn như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, lúc ấy Nhất Linh cũng
đang là hội viên danh dự và cũng là cố vấn Hội Văn Bút Việt Nam, và ngay giữa
năm thứ tư thịnh vượng của nền đệ Nhất Cộng Hoà mà cũng không xin được
giấy phép ra một tuần báo văn chương, sự kiện ấy rất đáng được ghi nhận và quan
tâm. Nhưng giữa bối cảnh “Sáng Dội Miền Nam” (tên một
tạp chí ảnh rất đẹp của ông Võ Đức Diên thời đệ Nhất Cộng Hoà) lúc ấy, và với
chính sách một nền dân chủ tập trung hầu như vẫn được dân
chúng miền Nam mặc nhiên chấp nhận.
Trên số Bách Khoa 97
(15/1/1961), cũng là năm thứ Sáu của nền đệ Nhất
Cộng Hoà, và là số Kỷ Niệm Đệ Tứ Chu Niên của tờ Bách Khoa, ông Huỳnh
Văn Lang đã có một bài viết với tiêu đề “Những Kẻ Phản Loạn” giọng
điệu rất gay gắt lên án cuộc đảo chánh 11/11/1960 của nhóm sĩ quan cấp tá: Nguyễn
Chánh Thi / Đại tá – Vương Văn Đông / Trung tá, có cả sĩ quan cấp uý Phan Lạc
Tuyên, một cây bút của Bách Khoa lúc bấy giờ, cùng với đám chính khách đối lập
thuộc Mặt trận Quốc dân Đoàn kết có tên Nhất Linh Nguyễn Tường
Tam ủng hộ cuộc đảo chính. Do ông HVL lúc ấy đang là một “công thần của
chế độ” đã không ngần ngại gọi ngay họ là bọn “phản quốc”, một
tuyên án có trước cả Toà Án Quân Sự Đặc Biệt với Trung tá quân pháp Lê Nguyên
Phu Uỷ là viên Chính Phủ được thiết lập sau này. Bị kết tội danh “phản quốc”
cũng là một trong những nguyên nhân đưa tới tuẫn tiết của văn hào Nhất Linh ba
năm sau,1963]. [5]
https://vietbao.com/images/file/b1vkLFc42QgBAMtq/w600/05-chau.jpg
Hình
5: (1) Từ Bách Khoa số 1(15/01/1957)
tới số 5 (15/03/1957), với địa chỉ toà soạn 55 Bà Huyện Thanh Quan, Phòng 42,
Sài Gòn,in tại nhà in An Ninh, 44 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn. (2) Từ Bách
Khoa số 6 (1/4/1957) tới số 39, toà soạn dời về địa chỉ nhà Văn Hoá
in 412-414 Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. (3) Bắt đầu từ BK số
40 (1/9/1958), lần thứ ba toà soạn Bách Khoa dọn về 160 Phan Đình
Phùng, Sài Gòn, một địa chỉ in đậm “dấu ấn” của Lê Ngộ Châu xuyên suốt cho tới số
426 (19/4/1975), cũng là số báo cuối cùng, chấm dứt cuộc hành trình 18 năm của
Bách Khoa. [5]
Ba năm sau cuộc đảo chánh lần thứ nhất thất bại (11/11/1960), do
thấy rõ nguy cơ một cuộc đảo chánh quân sự khác lật đổ chế độ Gia đình Họ Ngô
sẽ xảy ra, không ai khác hơn chính ông Huỳnh Văn Lang nhân vật số 2 của đảng
Cần Lao, lại manh nha “phản loạn” – chữ mà ông đã gán cho nhóm đảo
chánh 11/11/1960 trước đó.
Huỳnh Văn Lang đã cùng với Phạm
Ngọc Thảo (là một tay khuynh đảo “hai mang,” cấp bậc Đại tá của quân đội cả 2
bên). Hai người bắt đầu đi liên lạc vận động với một số tướng lãnh thân tín
thuộc đảng Cần Lao như các tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí… để
lập một kế hoạch đảo chính chế độ Ngô Đình Diệm, với mục đích loại trừ vợ chồng
ông cố vấn Ngô Đình Nhu, Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục và ông Ngô Đình Cẩn
ngoài miền Trung nhưng giữ lại cụ Diệm – người mà ông HVL vẫn tôn vinh coi như
là biểu tượng của chính nghĩa. Huỳnh Văn Lang đã nói với tướng Nguyễn Khánh
là: mình đảo chính “ông cụ” để giữ “ông cụ”. [Huỳnh Văn
Lang, Nhân chứng một chế độ, Một Chương Hồi ký, Tập Ba (trang 208 – 219). Tác
giả Xuất bản 2001] [7]
Với kế hoạch “đảo chánh nửa vời”
ấy nhằm phân hoá một gia đình Họ Ngô vốn có truyền thống đoàn kết
sắt son từ bao nhiêu thế hệ, phải nói là người chủ trương cuộc chính biến
ấy đã quá “lãng mạn hoặc ngây thơ” và cũng chứng tỏ ông Huỳnh Văn Lang đã chẳng
hiểu gì TT Ngô Đình Diệm, người mà ông được gần gũi và phục vụ trung thành
trong suốt 9 năm và dĩ nhiên mưu đồ “đảo chánh” ấy của nhóm Lang – Thảo đã bất
thành ngay từ trong trứng nước. [7]
Để rồi chỉ ít lâu sau, một vụ
chính biến quân sự khác nổ ra vào ngày 1/11/1963 của nhóm tướng lãnh Trần Văn
Đôn, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu do họ biết chớp lấy thời
cơ của một tình hình đã chín muồi, đưa tới cái chết bi thảm của cả hai anh em
ông Diệm ông Nhu, chấm dứt nền đệ Nhất Cộng Hoà.
Hai tuần lễ sau, trên tờ Bách
Khoa số 165 [15/11/1963], là một bài viết dĩ nhiên không phải của Huỳnh Văn
Lang mà của một người ký tên Tiểu Dân –người dân bé nhỏ, với
tiêu đề: “Cảm nghĩ về sự cáo chung của một chế độ độc tài”–
đó là một bài viết với văn phong trầm tĩnh, đã không nêu đích danh lên án hoặc
kết tội bất cứ ai. Mở đầu bài viết với mấy dòng chữ“Một chế độ lỗi thời,
phản tiến hoá, vừa bị đào thải. Một chế độ mới hướng về Tự Do thực sự, Dân chủ
chân chính đang được xây dựng.”
Bài viết dài 6 trang là một phân
tích bài học của 9 năm về nền đệ Nhất Cộng Hoà, với nhận định rằng:“Nếu
không đớn hèn thụ động thoả hiệp đầu hàng, thì không bao giờ có được chế
độ độc tài. Nếu có chế độ độc tài như đã xảy ra trong 9 năm đau buồn – thì
chính chúng ta bất cứ ai cũng đều có một phần trách nhiệm không nhỏ.” Và
đây là câu kết luận của bài viết: “Một dân tộc thế nào thì có một
chính quyền thế ấy.” “Và ta nên nghiền ngẫm chân lý này để đấu tranh xây
dựng một chế độ chân chính Dân Chủ và thực sự Tự Do.”[5]
NHỮNG KHÓ KHĂN VỀ TÀI CHÁNH CỦA BÁCH KHOA
Tạp chí Bách Khoa trước và sau
đổi tên 5 lần, dù có những tên khác nhau nhưng cơ bản tờ báo luôn luôn có hai
chữ Bách Khoa xuyên suốt từ số 1 tới số 426. [6]
1/ Bách Khoa từ số 1 (15/1/1957) tới số 193-194
(15/1/1965];
3/ Bách Khoa Thời Đại từ số 195 (15/ 2/1965) đến
số 312 (1/1/1970)
4/ Bách Khoa (trở lại tên BK), từ số 313-314
[15/1-1/2/1970) tới số 377 (15/9/1972]
5/ Bách Khoa Đặc San số 378 (1/10/1972) tới số
379 (15/10/1972)
6/ Bách Khoa Giai Phẩm số 380 (1/11/1972 tới số
426 (19/4/1975)
Sở dĩ có sự thay đổi tên gọi như
trên nhiều phần vì lý do chính trị: từ chế độ cũ / đệ Nhất Cộng Hoà sang chế độ
mới / đệ Nhị Cộng Hoà, và cả do những đường lối thay đổi rất bất thường của các
Bộ Thông tin và chính sách kiểm duyệt báo chí thời bấy giờ.
Viết về tờ báo Bách Khoa, ai cũng
nghĩ đó là tờ báo không nhận nguồn trợ cấp từ chính quyền điều đó đúng, nhưng
nếu nói Bách Khoa không có khó khăn về tài chánh thì sai – vì kể từ sau đảo
chính 1963, khi ông Huỳnh Văn Lang vướng vào vòng lao lý, nguồn thu nhập về quảng
cáo không còn như trước, rồi thêm tình trạng lạm phát khiến mọi chi phí cho
việc in ấn mỗi số Bách Khoa ngày một gia tăng, số độc giả Bách Khoa cũng lên
xuống bất thường do thiên tai lũ lụt ngoài Trung, do biến động chính trị và
tình hình chiến sự lan rộng khiến đường bộ mất an ninh và Bách Khoa không
phát hành ra miền Trung được – mà ai cũng biết miền Trung tuy nghèo nhưng lại
là vùng có số độc giả tiêu thụ sách báo lớn nhất của cả nước. Nhà thơ
Thành Tôn bấy lâu vẫn tình nguyện giúp phát hành sách báo ở miền Trung trong
nhiều năm cũng đã cho biết như vậy.
Khi Bách Khoa thực sự bước vào
những giai đoạn khó khăn về tài chính. Lê Châu đã phải bươn trải, thay đổi nhà
in, tìm nơi in với giá rẻ, và giảm thiểu mọi chi tiêu ở toà soạn để Bách Khoa
có thể sống còn, đây là một khía cạnh “tài năng khác” của Lê Ngộ Châu ít được
ai biết tới. Một điểm son khác của Bách Khoa, dù trong tình trạng thiếu hụt
nào, chưa bao giờ Bách Khoa không chu toàn phần nhuận bút với các cây bút cộng
tác trong nước.
Bách Khoa giai đoạn đầu, báo in ở
(1) Nhà in An Ninh, 44 Nguyễn An Ninh Sài Gòn, rồi một nhà in khác (2) Nhà in
Văn Hoá 412-414 Trần Hưng Đạo Sài Gòn,
Bách Khoa giai đoạn hai, chuyển
qua (3) Nhà in Tương Lai, 133 đường Võ Tánh Sài Gòn, rồi cuối cùng là (4)
Nhà in Trí Đăng, 21 Nguyễn Thiện Thuật Sài Gòn, từ số 332 tới 426
[1/11/1970 – 19/4/1975].
Trên số BK 221 (15/3/1966), giữa
những tin chiến sự nóng bỏng như: chiến tranh mở rộng ra miền Bắc, trận đánh
lớn Đồng Xoài; toà soạn Bách Khoa ra thông báo: “vì giao thông đường
bộ gián đoạn, báo chuyển ra miền Trung từ nay phải hoàn toàn gửi bằng đường
hàng không, nên độc giả báo dài hạn, báo biếu xin gửi thêm 20đ
tiền tem.”
Nhà in Tương Lai trên đường Võ
Tánh trước kia do trúng thầu in vé Số Quốc gia có lợi nhuận lớn, nên trong
nhiều năm nhận in thêm Bách Khoa với giá rất phải chăng; nhưng khi mất nguồn
thu nhập này, Tương Lai không còn có thể in Bách Khoa với giá thấp như trước,
Bách Khoa đứng trước nguy cơ “xập tiệm”.
May lúc đó có nhà văn nhà báo
Nguiễn Ngu Í vốn là bạn thân lâu năm của anh Trí Đăng từ hồi còn ở Quảng Ngãi,
giới thiệu Lê Ngộ Châu với nhà xuất bản Trí Đăng. Anh Trí Đăng, tên thật là
Nguyễn Liên tuy gốc nhà giáo có bằng Cao học Triết Đại học Văn Khoa Sài Gòn
nhưng lại thích hoạt động trong ngành xuất bản. Anh có nhà in lớn, lại đang
thành công trong công việc xuất bản sách giáo khoa, nên Trí Đăng đã nhận in
Bách Khoa với giá vốn nhưng anh LNC vẫn chưa hết khó khăn cho dù đã giảm thiểu
tối đa mọi chi phí ở toà soạn, với nhân sự chỉ còn 3 người: vợ chồng Lê Châu –
Nghiêm Ngọc Huân và một thư ký.
Bách Khoa đang phát hành mỗi kỳ
hơn 4 ngàn số báo, với 1000 độc giả dài hạn và khoảng 100 độc giả ở nước ngoài,
nay số phát hành có lúc xuống chỉ còn 1 ngàn, sau có tăng dần nhưng cũng
không thể nào trở lại con số ban đầu. Giá báo phải tăng từ 8$ lên 12$ rồi
15$... Tới một lúc, để có thể sống còn, Bách Khoa phải cùng với các tạp chí
khác như Văn, Tân Văn, Phổ Thông, Văn Học, đồng loạt tăng lên 20$ một số báo.
Rồi từ số BK 378 [tháng 10
năm 1972], với Sắc luật 007* nghiệt ngã và kỳ quái, nhiều tờ báo đã phải
đóng cửa và Bách Khoa đã phải ra với hình thức Giai Phẩm, giá mỗi số Bách
Khoa vẫn tăng liên tục từ 50$, 70$, 100$ rồi 120$, rồi 150$ từ số Giai phẩm
405, rồi 200$ từ số 406.
* Sắc
Luật 007/ 72 do TT Nguyễn Văn Thiệu ký ngày 5/8/1972, bắt
buộc mỗi nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng (80 VN$ tương đương với 1US$
lúc đó), còn báo định kỳ tuần san, bán nguyệt san phải đóng ký quỹ 10 triệu đồng
nếu tờ báo nào không nộp đủ số tiền đó, sẽ bị rút giấy phép ra báo. Sắc luật
007 còn có thêm quy định tờ báo nào bị tịch thu lần 2 sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn.
Chỉ riêng khoản phải đóng ký quỹ 10 triệu đồng, Bách Khoa vĩnh viễn từ
đây không thể nào có giấy phép và chỉ có thể ra từng tập với số kiểm duyệt như
một “giai phẩm”.
Ngày Ký Giả đi ăn
mày cuối năm Dần [8/9/1974], với hình ảnh một học giả Hồ Hữu Tường nón lá và bị
gậy đi giữa đông đảo đoàn ký giả thuộc thế hệ trẻ hơn ông là một bi hài kịch cuối
cùng của tự do báo chí miền Nam, mấy tháng trước ngày mất nước 30/4/1975.
https://vietbao.com/images/file/y2KVL1c42QgBAEhd/06-chau.jpg
Hình
6:trái, hình bìa số
Giai phẩm Xuân Ất Mão 1974 của hoạ sĩ Văn Thanh; phải, trang sinh hoạt
Bách Khoa với hình ảnh một học giả Hồ Hữu Tường đội nón lá và bị gậy đi giữa
đông đảo đoàn ký giả thuộc thế hệ trẻ hơn ông là một bi hài kịch cuối cùng của
tự do báo chí miền Nam, mấy tháng trước ngày mất nước 30/4/1975. [5]
Trong số giai phẩm Xuân Ất Mão – cũng là số kỷ
niệm 18 năm, Nhóm Chủ trương Bách Khoa viết: “Với số này, Bách Khoa đã
bước sang năm 19 bằng những bước thực là chật vật và cực nhọc. Nói về giá giấy
và chi phí ấn loát đã leo thang nhiều bậc thật dài, nói về mãi lực bạn đọc giảm
sút đều đều, tháng này qua tháng khác… Cảm tình của bạn đọc có sức mạnh gây được
niềm tin tưởng cho những anh em đã cộng tác và làm nên tờ Bách Khoa ngày nay, để
hy vọng Bách Khoa còn đứng vững được trong những tháng sắp tới của năm mới, mặc
dầu tình hình chiến sự đương khẩn trương hơn lúc nào hết, tình trạng kinh tế mỗi
ngày một khó khăn và tương lai của ngành xuất bản và báo chí thì tối tăm như
đêm ba mươi Tết…” Đó là trang mở đầu ảm đạm của số giai phẩm Xuân
Ất Mão – thay vì là một thiệp chúc Tết vui tươi.
Thêm một may mắn
nữa, Lê Ngộ Châu gặp được một quý nhân hỗ trợ: đó là nhà giáo Phạm Tấn
Kiệt, bút hiệu Long Điền hay Phạm Long Điền, (do quê anh ở quận Long
Điền, Bà Rịa Vũng Tàu), Long Điền cũng từng viết một số bài cho Bách Khoa [từ
1974] với các đề tài như: Cụ Phan Văn Trường với tập Hồi Ký “Một chuyện
âm mưu của người An-nam tại Paris [BK 405], Nhân Kỷ niệm Phan Chu Trinh, nhắc lại
Vụ án Nguyễn An Ninh 48 năm về trước (1926) [BK 408-409], Thuyết Pháp Việt Đề
Huề và nhóm La Cloche fêlée [BK 410]… Viết về nghiên cứu văn hoá,
nhưng anh Long Điền Phạm Tấn Kiệt lại có bằng cử nhân Vật lý Đại học Khoa học
Sài Gòn, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, là Giám đốc Nha Nghiên Cứu và Kế
hoạch Bộ Giáo dục, và ở cương vị ấy Phạm Long Điền đã có một “hành động rất
nghĩa hiệp” vượt qua nguyên tắc, linh hoạt giúp Bách Khoa có được “bông giấy”
từ Bộ Kinh Tế, với quy chế Bách Khoa được “in như một tài liệu sách
giáo khoa”.
Lê Ngộ Châu duy
trì được tờ Bách Khoa sống còn là nhờ phần giúp đỡ “vô vị lợi” của nhà giáo Phạm
Long Điền. Và chính nhà in Trí Đăng đã sử dụng nguồn giấy “bonus” này để
in báo Bách Khoa. Tình hình tài chính Bách Khoa phần nào tạm ổn định từ
đây, và Giai phẩm Bách Khoa đã sống cho tới Tháng 4/1975.
*Anh Long Điền Phạm Tấn Kiệt bị kẹt ở lại ở Việt Nam sau 1975, do anh là một
công chức cao cấp bộ Giáo Dục VNCH, cả hai vợ chồng là nhà giáo nhưng không được
đi dạy học trở lại, sống rất khổ cực cho tới khi được con gái – là thuyền nhân,
bảo lãnh sang định cư bên Canada và anh Long Điền đã mất sớm sau đó.
https://vietbao.com/images/file/VFxtNFc42QgBAPcN/w600/07-chau.jpg
Hình
7: Toà soạn Bách Khoa
160 Phan Đình Phùng Sài Gòn, những năm đầu tiên, từ phải: với chủ nhiệm Lê Ngộ
Châu (2006), Vũ Hạnh “Bút Máu”cán bộ cộng sản nằm vùng, học giả Nguyễn Hiến Lê
(1984), kịch tác gia Vi Huyền Đắc “Kim Tiền” (1976), nhà báo Lê Phương Chi
(2012), Võ Phiến “Người Tù” chống cộng (2015). Bách Khoa từng được nhà thơ
Nguyên Sa Trần Bích Lan (1998) ví như một vùng xôi đậu. (nguồn: Chân Dung VHNT
& VH 2017) [1]
https://vietbao.com/images/file/bAuBNlc42QgBAFVK/w600/08-chau.jpg
Hình
8: trái và giữa, bìa 2
số Bách Khoa Tết Mậu Thân 265 & 266 và Tân Niên 267 & 268 năm 1968 với
chủ đề “Những người cầm bút viết trong khói lửa đầu năm”; Bách Khoa 426
ra ngày 19/04/1975, với hình bìa là một không ảnh chụp đoàn xe trên đường di tản
hỗn loạn từ Cao nguyên về Nha Trang và đây cũng là số báo Bách Khoa cuối cùng.
Bách Khoa có tuổi thọ 18 năm – bằng tuổi thọ báo Nam Phong của Phạm Quỳnh, trải
qua 2 nền Cộng Hoà đầy biến động của miền Nam Việt Nam. [5]
Từ nhà in Trí Đăng, anh Nguyễn Liên có nhận
xét về anh Lê Ngộ Châu như sau: “Điều hành tờ Bách Khoa trong bấy nhiêu
năm, tuy anh Châu không có bài viết nào ký tên mình ngoài một bút danh chung
“Bách Khoa”, nhưng tất cả các bài vở gửi đến đều được anh Châu trân trọng đọc. Khi
tiếp nhận các bài vở đưa đến nhà in chúng tôi, nhìn bản thảo, tôi biết như thế.
Bài nào được chọn đăng, đều có bút tích của anh Lê Châu sửa lại cho hoàn chỉnh, anh
không bao giờ nói ra điều đó với ai.
Với những tác giả mới,
anh Lê Ngộ Châu có sự nhạy bén phát hiện tài năng và rồi cả gợi ý đề
tài cho người viết. Anh Châu ẩn nhẫn làm công việc toà soạn bằng cái lòng chân
thật yêu chữ nghĩa. Kể cả các bài của những cây bút đã nổi danh vẫn được
anh Châu chỉnh sửa, ngay với tác giả khó tính như Bình Nguyên Lộc, vẫn được
anh Châu edit lại, và anh BNL đã không có một lời than phiền. Ngoài
ra, trong giao tế anh Châu rất ân cần với từng người. Với các người viết trẻ;
anh vẫn thân ái “anh tôi” rồi, anh Châu nhớ cả ngày sinh, ngày giỗ của từng gia
đình anh em, anh viết thơ tay thăm hỏi tới những người lính cầm bút nơi tiền đồn
phương xa và trước sau anh được mọi người thương mến là như vậy.
https://vietbao.com/images/file/ZP5zO1c42QgBABVy/09-chau.jpg
Hình
9: Hình chụp tháng
7/1994 tại Universal Studio Hollywood, Universal City, California: từ phải, anh
chị Nguyễn Liên / Trí Đăng, anh Lê Ngộ Châu, anh chị Võ Phiến. Nhà in Nhà Xuất
bản Trí Đăng đã in báo Bách Khoa trong nhiều năm cho tới số báo cuốicùng, số
426 ngày 19/4/1975. [tư liệu Viễn Phố]
Nhà báo Nguiễn Ngu Í trong một chuyến đi xông
đất “Tìm hiểu Nỗi lòng của Ban Biên Tập Bách Khoa”, khi tới thăm anh Lê
Châu, phụ trách toà soạn báo… Trăm Khoa nhân dịp kỷ niệm 5 năm báo Bách
Khoa, anh Nguiễn Ngu Í đã rất duyên dáng ghi lại cuộc nói chuyện với Lê Ngộ
Châu:
“Tân niên ! Quấy rầy
anh [Lê Ngộ Châu] lúc này, không để anh thoát khỏi – dù chỉ trong giây lát –
cái bề bộn, cái bận rộn, cái cứ như thế mãi cũng là một điều nên làm.
- Này anh, người ta đồn
“động Bách Khoa” là một động của ông già bà cả trên dưới 40, một nhóm
người cửa đóng then gài… kín mít, chỉ chơi riêng với nhau.
Mặt lúc nào cũng tươi
của anh lại càng tươi, vì thấy câu hỏi sao mà dễ trả lời thế. Anh lấy một số Báck
Khoa kỉ niệm có sẵn trước mặt đưa cho tôi và nói:
- Đây, anh xem lại,
tác giả số bài đăng trên số Bách Khoa có những người trên bốn mươi mà cũng có rất
nhiều người dưới ba mươi, hai mươi…
Ngừng một chút anh lại tiếp:
- Tuy nhiên trẻ già,
mới cũ, đâu có phải chỉ tuỳ thuộc ở số tuổi. Chính anh đã từng dự trại Hè Sinh
viên mà trẻ trung hơn cả nhiều anh chị em sinh viên đấy! Chỉ cần xem lại những
số Bách Khoa kỉ niệm trong 5 năm qua cũng đủ thấy một số lớn cây bút lúc đầu đã
lần lần nhường chỗ cho mấy cây bút tới sau và mỗi năm Bách Khoa lại được thêm một
số cây bút cộng tác khác với năm trước.
Thêm nữa anh còn lạ
gì, để tránh thành kiến chủ quan, Bách Khoa không có một chủ bút, mà có cả một
“tập đoàn chủ bút”. Anh em trong toà soạn và những bạn bè cộng tác thường
xuyên chia nhau đọc bài hợp với sở trường hoặc ngành chuyên môn của mình, rồi
sau đó tập thể quyết định đăng hay không. Như vậy tinh thần bè phái trong Bách
Khoa không thể có, mà thực tế Bách Khoa lúc nào cũng mở rất rộng cửa để mời đón
các bạn cộng tác mới, nhất là các bạn văn nghệ, vì chúng ta vẫn mong muốn tờ
báo “phản ánh được mọi xu hướng nghệ thuật dị biệt ngày nay.”
- Anh được đọc tất cả
các bài gửi về, anh có gặp những vui buồn gì ? Và anh đọc nhiều bài thế có thấy
mệt không ?
- Cái mệt phải đành
thôi, tôi xin miễn nói. Nghề nào cũng có cái mệt của nghề ấy. Thấy bài đến nhiều
là mình đã vui rồi, vui vì được nhiều người tìm đến,và khi mở bao mở bì ra đọc
là lòng hồi hộp, chỉ mong gặp được bài hay để đăng mà thôi. Và tự nhiên nếu
không được cái may mắn ấy, thì sao khỏi buồn đôi chút. Ân hận nhất là vì số
trang có hạn và báo nửa tháng mới có một kỳ, nên nhiều bài thực giá trị mà vẫn
phải để lần lữa mãi không sao đăng được ngay vì kẹt nhiều bài, mà cũng vì chủ
trương của Bách Khoa vốn vẫn dành ưu tiên cho các bài có tính thời sự.
- Sao rồi chẳng ai được
đọc bài nào kí tên anh cả ?
- Tôi có nhiệm vụ làm
cho tờ báo thành hình, và đăng được đa số bài các anh em cùng các bạn xa gần gửi
đến. Tất nhiên khi nào phải có thừa chỗ mới đến lượt tôi được.
(hết trích, BK 123, 15/2/1962, trang 106-109) [5]
“Tập đoàn chủ
bút”: đó chỉ là cách nói khiêm cung của Lê Châu, anh muốn nói tới tinh thần làm
việc hài hoà của các thành viên trong toà soạn Bách Khoa. Thực ra, anh Châu rất
nhậy bén khi đọc tất cả các bài viết và tìm ra các bài hay để chọn đăng,
chỉ trừ một vài bài có nội dung chuyên môn cao thì anh mới tham khảo một chuyên
gia khác có thẩm quyền để có được một “ý kiến thứ hai” nhưng chọn đăng hay
không quyết định cuối cùng vẫn là chủ nhiệm Lê Châu.
Kinh nghiệm của
người viết [Ngô Thế Vinh], trong bài “Đàm Thoại với Ngô Thế Vinh từ Vòng Đai
Xanh tới Mặt Trận ở Sài Gòn”, đăng trong số Bách Khoa 370, ngày 1/6/1972 là
do anh chính chủ nhiệm Lê Ngộ Châu thực hiện tại toà soạn nhưng khi báo ra chỉ
ghi là Bách Khoa (khiến sau này, có nhà nghiên cứu văn học cũng tưởng rằng đó
là bài PV của nhà báo Nguiễn Ngu Í, vì anh Nguiễn Ngu Í là người thường xuyên
thực hiện các cuộc phỏng vấn cho báo Bách Khoa trong nhiều năm).
Ai cũng thấy rằng
nếu không có cái “nhẫn” và tài điều hành khéo léo của anh Lê Ngộ Châu thì tờ
Bách Khoa đã không thể tồn tại lâu đến như vậy. Bộ báo đồ sộ 426 số Bách
Khoa sẽ là nguồn tư liệu quý giá để tham khảo về văn hoá, xã hội, rất có giá
trị cho các thế hệ sau về một giai đoạn lịch sử đầy biến động của Miền
Nam.
MỘT BÁCK KHOA TAN
TÁC SAU 1975
Trước ngày mất
Sài Gòn, Võ Phiến và Lê Tất Điều do có làm việc cho Đài Mẹ Việt Nam nên
được kể trong số nhân viên của Đài được Mỹ lo cho di tản trước. Chứng kiến một
Võ Phiến hai lần khóc khi phải ra đi vì biết không có ngày trở về, lần thứ nhất
với Lê Ngộ Châu nơi toà soạn Bách Khoa ngày 23/4/1975, rồi lần thứ hai với Lê Tất
Điều trên con tàu Challenger ngày 29/4/1975 khi rời đảo Phú Quốc. Một số những
văn nghệ sĩ khác cũng may mắn thoát đi được, có thể kể thêm như Viên Linh Hóa
Thân, Túy Hồng Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường
Dài, Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người Viễn
Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm, rồi cả Phạm Duy Con
Đường Cái Quan…
Thế còn những
người ở lại thì sao?
Ngày 5 tháng 5,
1975, Lê Ngộ Châu đã kinh hoàng khi nghe tin một trong những cây viết lâu năm của
Bách Khoa, Phạm Việt Châu tác giả loạt bàiTrăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
đã tuẫn tiết ngay tại tư gia khi cộng sản tiến chiếm Sài Gòn. Cái chết rất sớm
và tức tưởi của một học giả có viễn kiến về lịch sử dân tộc, với sức sáng tạo
đang sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một hồi chuông báo tử cho rất nhiều
tang thương diễn ra sau đó.
Rồi cũng vào một
ngày đầu tháng 5, 1975, khi chưa đi trình diện cải tạo, người viết tới thăm anh
Lê Ngộ Châu, và đã gặp hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ,
tới tòa báo Bách Khoa. Trước khách lạ, đứa con gái bằng một giọng hãnh tiến,
nói với anh chị Lê Ngộ Châu: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích
tới sáng.” Hình ảnh của đám nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30”
không khác một “phó bản” của một đám Vệ binh Đỏ của Mao trong cuộc cách mạng
văn hoá, chúng đi reo rắc kinh hoàng giữa một Sài Gòn đang hoảng loạn lúc bấy
giờ. Cũng chính những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch “lùng
và diệt tàn dư văn hóa Mỹ Nguỵ”, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt
từng chồng sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng
chưa hề đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người” của học giả Nguyễn
Hiến Lê.
-- Hoạ sĩ lập
thể Tạ Tỵ, BS Trần Văn Tích hai người có bài viết trên số báo Bách Khoa 426 cuối
cùng không thoát đi được, đã cùng với hầu như toàn thể các văn nghệ sĩ miền
Nam, lần lượt trước sau bị bắt đưa vào các trại tù cải tạo của CS.
-- Nhà thơ nhà
giáo Vũ Hoàng Chương, cùng thời với thi sĩ Hoàng Cầm, Hữu Loan ngoài miền
Bắc, có nhiều bài thơ đặc sắc đăng trên Bách Khoa cho tới 1975, cũng bị CS bắt
giam tù trong khám Chí Hoà, và chỉ được thả ra khi sắp chết, và ông đã chết tại
nhà 5 ngày sau.
-- Học giả Nguyễn
Hiến Lê, người viết nhiều nhất trên Bách Khoa, tới 1975 đã xuất bản tác phẩm thứ
100, bắt đầu phải sống qua những trải nghiệm đắng cay và vỡ mộng với những người
cộng sản và mặt trận giải phóng mà bao năm trước đó ông đã không dấu mối thiện
cảm và cả sự ngưỡng mộ.
-- Lê Ngộ Châu,
tuy không bị bắt đi tù cải tạo nhưng bị vô hiệu hoá, thư viện phong phú của
Bách Khoa một đời ông dày công sưu tập cũng không giữ được và cuối cùng cũng phải
nộp cho Hai Khuynh tức Nguyễn Huy Khanh, là một trong “ngũ hổ tướng” của Thành
uỷ Sài Gòn lúc bấy giờ. Sau này, cũng những cuốn sách ấy với cả thủ bút các tác
giả ký tặng anh, đã được thấy bày bán nơi mấy tiệm sách cũ, mà các khách tìm
mua có cả những học giả từ miền Bắc vào. Nhà văn Thế Phong, trước 1975 nổi
tiếng với Đại Nam Văn Hiến Xuất Bản Cục, in ronéo, đã kể lại cũng chính
Thế Phong tìm mua lại được hầu như toàn bộ tác phẩm của mình xuất bản trước
1975 với thủ bút đề tặng Lê Ngộ Châu. Ai cũng hiểu rằng đó là niềm đau
sót sâu thẳm của Lê Ngộ Châu mà anh không bao giờ anh nói ra.
https://vietbao.com/images/file/iLtkP1c42QgBAE5P/w600/10-chau.jpg
Hình
10: Sau 1975 nhiều
khách từ Hà Nội vào Nam đều muốn tới thăm toà soạn Bách Khoa 160 Phan Đình
Phùng, Sài Gòn; hình trái, chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu (2006), học giả Đào
Duy Anh (1988), ông Nguyễn Hùng Trương (2005), giám đốc nhà sách Khai Trí, 62
đường Lê Lợi Sài Gòn; hình phải, Lê Ngộ Châu, nhà thơ Cù Huy Cận (2005), tác giả
Lửa Thiêng, đảng viên cộng sản kỳ cựu và là Bộ trưởng Văn hoá Giáo dục chính phủ
CHXHCN Việt Nam. [tư liệu của Viễn Phố]
- Vũ Hạnh, tên thật Nguyễn Đức Dũng còn có thêm bút
hiệu cô Phương Thảo, tuy được biết từ lâu là một cán bộ CS nằm vùng trong
Bách Khoa, từng bị bắt vào tù nhiều lần, nhưng đều được các văn hữu “với tấm
lòng” cứu ra, trong số đó phải kể tới Linh mục Thanh Lãng chủ tịch Văn bút,
chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã vận động để Vũ Hạnh được thả ra để rồi sau đó Vũ Hạnh
lại công khai hoạt động. Sau 30/04/1975 Vũ Hạnh chính thức lộ diện là một cán bộ
cộng sản và như một hung thần, Vũ Hạnh lập thêm công trạng bằng cả một danh
sách chỉ điểm cho “cách mạng” truy lùng bỏ tù hầu hết các văn nghệ sĩ miền Nam
còn kẹt ở lại, trong đó có cả những người đã từng ký tên đòi trả tự do cho
Vũ Hạnh khi đang trong vòng lao lý.
Sau
1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn
Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát,
Dương Hùng Cường… hay vừa
ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt
phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu Nhan Sắc sống bằng nghề sơn mài,
Lê Xuyên Chú Tư Cầu ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác
giả kịch Bão Thời Đại thì đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường
Một Chiều làm công nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi
ba năm ở tù ra trở thành Người Bán Cà Rem Dạo.
Vũ Hạnh,
tuổi đã ngoài 80 rồi 90, như một đao phủ bao nhiêu năm sau vẫn không nương tay
tiếp tục viết các bài đấu tố những người cầm bút còn ở lại. Dương Nghiễm Mậu,
Lê Xuyên, là những nạn nhân điển hình khi Công ty Phương Nam cho in lại mấy
cuốn sách chỉ có tính cách văn học của Dương Nghiễm Mậu.
Vũ Hạnh của Bút Máu viết: “Sách của
Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào
sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống
trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy.” Vũ Hạnh
viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi
thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí
độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự
đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác giả Dương Nghiễm Mậu, Lê
Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp bất cứ sự
quấy phiền nào.” (Sài Gòn Giải Phóng, 22/4/2007).
“Ngày Xưa Vũ Hạnh” cộng
sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối xử như một nhà văn, được
quyền tự do phát biểu (Lý Đợi, talawas 10.5.2007) “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên
thắng cuộc – tên bộ sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là tiếng nói hung
hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia. Vẫn
một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy suyển: “tác giả là
gốc ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh
xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng
ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn không ngừng truy đuổi cả những thế hệ
nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự do, điển hình qua bài viết phê phán Nhã
Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi và Bùi Chát (Thấy
gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013).
Có lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người
cộng sản tha hóa bước vào Thế Kỷ 21 là sự “ngụy tín / mauvaise foi” họ sống
với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ võ cho điều mà họ không còn chút tin
tưởng. Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi
con cái trưởng thành sang sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một
con người tự do.
Vũ Hạnh, trong một lần qua Mỹ thăm con ở nam
California, đã viết thơ cho anh Trí Đăng tha thiết ngỏ ý muốn được gặp Võ Phiến,
nhưng lời yêu cầu ấy đã bị Võ Phiến và gia đình dứt khoát từ chối.
NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA
LÊ NGỘ CHÂU
Tên tuổi Lê Ngộ
Châu, nơi địa chỉ 160 Phan Đình Phùng đối với nhiều người là một điểm hẹn
đáng tin cậy. “Từ Calfornia, khi cần tìm lại một số bài viết từ trước 1975,
tôi – người viết nghĩ ngay tới Lê Ngộ Châu và được anh cho biết sau 1975, tủ
sách đầy đủ của toà soạn Bách Khoa anh đã không còn giữ lại được nhưng anh vẫn
hứa sẽ cố giúp. Anh hỏi nhiều người, cuối cùng anh nhờ được LM Nguyễn Ngọc Lan,
Dòng Chúa Cứu Thế và sau đó tôi đã có được đầy đủ các bài viết trên bộ báo
Trình Bày; và rồi tuyển tập truyện ngắn Mặt Trận ở Sài Gòn do Văn Nghệ của anh
Từ Mẫn Võ Thắng Tiết xuất bản lần đầu tiên ở hải ngoại 1996 do có sự nhiệt tình
giúp đỡ của anh Lê Châu.”
Đỗ Nghê / Đỗ Hồng
Ngọc là cháu của nhà văn Nguyễn Ngu Í, vẫn còn nhớ tới lời khuyên của anh Lê
Châu: “Anh Ngọc viết được gì thì viết ngay bây giờ đi (lúc đó Đỗ Nghê 60 tuổi,
anh Lê Ngộ Châu đã 80), đừng để như tôi, biết bao nhiêu chuyện hay thú vị ở toà
soạn Bách Khoa, định viết mà rồi không còn viết được nữa.”
Tuy nói vậy, nhưng
từ nhiều năm trước, mỗi lần có dịp gặp anh Lê Châu tôi đều có nhắc như một gợi
ý là anh nên viết một hồi ký hành trình 18 năm với Bách Khoa, thì anh Châu chỉ
dí dỏm trả lời bằng một câu hỏi khác: “Anh Vinh khi về bên đó hỏi Võ Phiến
có cho tôi viết hay không?” Ý tại ngôn ngoại, ai cũng hiểu rằng anh
Châu muốn nói tới những quan hệ linh tinh giữa các nhà văn nam nữ và Bách Khoa
thì như một trạm giao liên và Lê Châu thì rất kín đáo, không bao giờ nói ra.
Chuyện dật sự
bây giờ mới kể, là sau khi đã phải “hiến” thư viện Bách Khoa cho Hai Khuynh, Lê
Châu nghĩ tới tình huống căn nhà 160 Phan Đình Phùng nơi anh cư ngụ bất cứ lúc
nào có thể bị công an tới khám xét. Chuyện sau 1975 mà ai cũng biết, ngay như với
Giáo sư Y khoa Phạm Biểu Tâm, một tên tuổi lớn của trí thức miền Nam mà chế độ
mới đang rất cần ông trong những năm đầu nhưng họ vẫn không bao giờ tin ông. Bằng
cớ là căn nhà của GS Tâm trên đường Ngô Thời Nhiệm, giữa thanh thiên bạch nhật,
ít nhất đã hai lần bị công an thành phố xông vào lục xét. Và cứ sau một lần như
vậy, không phát hiện được gì thì Thành Ủy đã lại đứng ra xin lỗi coi đó chỉ là
hành động sai trái của thuộc cấp. Sự giải thích ấy thật ra chỉ là hai bản mặt
của chế độ.
Không thể nói
anh Lê Ngộ Châu không hiểu cộng sản, nên còn bao nhiêu thư từ chung và riêng của
Bách Khoa đã giữ gìn bấy lâu, anh cẩn thận xếp để vào trong hai hộp giấy, đem tới
gửi nơi nhà chị Nguyễn Khoa Diệu Chi, vợ nhà văn Nguyễn Mộng Giác bên Thị Nghè.
Năm 1990, khi chị Diệu Chi và con gái sắp đi đoàn tụ với chồng bên Mỹ, hàng
trăm bức thư cả chung và riêng ấy – như một phần lịch sử của Bách Khoa, có tính
văn học hay không, thì tất cả cũng đã trở thành tro than, thả về cho người
trăm năm cũ.
Trần Hoài Thư
viết về chủ nhiệm Bách Khoa: “Lê Ngộ Châu mà tôi được biết trong vài lần ghé
thăm tòa soạn Bách Khoa: (1) Mỗi tác giả đều có một hồ sơ riêng (folder), bài
không đăng, có thể lấy lại từ tòa sọan. (2) Ông không ngại đọc bản thảo viết
tay quá xấu, như trường hợp cá nhân tôi, vì ngón tay cầm viết bị miểng lựu đạn
cắt nên chữ viết rất khó đọc, vậy mà ông không nề hà. Ông cầm cái kính lúp soi
từng hàng chữ, rồi sửa lại chi chít, trước khi đưa chị Châu đánh máy, anh không
hề than một tiếng… Điều đó chứng tỏ ông rất trân trọng sự đóng góp của người viết.
Tôi nghĩ nếu Bách Khoa không có ông Lê Ngộ Châu thì không biết có Hoàng Ngọc Tuấn,
Thế Uyên, Lê Tất Điều, Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ? Riêng
bản thân tôi, tôi sẽ nói nếu không có Bách Khoa, không có ông Lê Ngộ Châu thì
chắc chắn tôi sẽ không có dịp đi vào con đường chữ nghĩa như ngày hôm nay.” [2]
VẪN MỘT LÊ NGỘ
CHÂU CỦA HÒA GIẢI
Năm 1994, Lê Ngộ Châu đưa người con gái thứ
hai sang Mỹ định cư. Với 18 năm điều hành tờ Bách Khoa, anh Châu có rất nhiều bạn
và Võ Phiến có lẽ là người anh thân thiết nhất. Trong chỗ rất riêng tư, khi biết
giữa Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác, “có vấn đề" trong sự chuyển tiếp
tờ Văn Học Nghệ Thuật sang tờ Văn Học. Cả hai cùng là người Bình
Định,nhưng với cái tình đồng hương ấy cũng không sao tránh được trục trặc trong
điều hành tờ Văn Học, khi mà Võ Phiến còn đứng tên chủ nhiệm và Nguyễn Mộng
Giác là chủ bút. Rất bén nhạy, Lê Ngộ Châu cảm thấy ngay được sự "nghẽn
mạch" giữa hai anh em. Anh sốt sắng đóng vai "hòa giải" –
vẫn chữ của Lê Ngộ Châu.
Rồi như một cái cớ, tôi tổ chức buổi họp mặt
tiếp đón anh Lê Ngộ Châu tại một clubhouse, nơi tôi cư ngụ trên đường
Bellflower, Long Beach. Dĩ nhiên có anh Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác và có khoảng
hai chục thân hữu quen biết anh Lê Ngộ Châu và tạp chí Văn Học có mặt hôm đó:
các anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Từ Mai Trần Huy Bích, Trúc Chi, Thạch Hãn Lê Thọ
Giáo, Khánh Trường, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy... Chỉ riêng cái tình "tha
hương ngộ cố tri" ấy, qua những trao đổi, như từ bao giờ anh Lê Ngộ
Châu vẫn lối nói chuyện vui dí dỏm và duyên dáng, anh đã như một chất xi-măng nối
kết mọi người. Và cũng để hiểu tại sao, trong suốt 18 năm, anh Lê Ngộ Châu đã
điều hợp được tờ Bách Khoa, vốn là một vùng xôi đậu phức tạp như vậy.
Đó là lần thăm Mỹ duy nhất 1994 của anh Lê Ngộ
Châu, cũng như giám đốc Nhà sách Khai Trí, nhưng rồi cả hai đều chọn trở về sống
ở Sài Gòn. Năm 2001, trong dịp trở lại thăm Đồng Bằng Sông Cửu Long, tôi gặp lại
anh Lê Ngộ Châu nơi tòa soạn Bách Khoa ngày nào, anh vẫn nhớ và nhắc tới buổi gặp
gỡ “hoà giải” hôm đó.
https://vietbao.com/images/file/FNfiQlc42QgBAOY_/11-chau.jpg
Hình
11: Ngô Thế Vinh tổ chức
buổi họp mặt tiếp đón tiếp anh Lê Ngộ Châu 30/10/1994 tại một clubhouse trên đường
Bellflower Long Beach, từ trái: Nghiêu Đề (1999), Võ Phiến (2015), Bùi Vĩnh
Phúc, Hoàng Khởi Phong, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Mộng Giác (2012), Trúc Chi Tôn Thất
Kỳ, Như Phong Lê Văn Tiến (2001), Lê Ngộ Châu (2006), Lưu Trung Khảo (2015), Trần
Huy Bích. [photo by Ngô Thế Vinh]
https://vietbao.com/images/file/04Y_R1c42QgBAKx9/w600/12-chau.jpg
Hình
12: Hình chụp tháng 7/1994 tại nhà anh chị Võ Phiến, từ trái, Ngô Thế Vinh,
Lê Tất Điều, anh chị Võ Phiến, anh Lê Ngộ Châu, Gs Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Mạnh.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
https://vietbao.com/images/file/GHb0Slc42QgBAO8Q/13-chau.jpg
Hình
13: Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu tới thăm nhà văn Linh Bảo tại Thành phố
Giữa Đường / Midway City (1995); từ phải, Ngô Thế Vinh, Linh Bảo, Lê Ngộ
Châu, Võ Phiến. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
https://vietbao.com/images/file/fg79TVc42QgBAN8D/w600/14-chau.jpg
Hình
14: Anh Lê Ngộ Châu trong chuyến thăm bạn hữu ở
California (1994), từ trái, Dohamide / Đỗ Hải Minh (cây bút chuyên khảo về văn minh Champa trên
Bách Khoa ngày nào), Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến. [tư liệu Ngô Thế
Vinh]
https://vietbao.com/images/file/lvjFUFc42QgBAPsA/w600/15-chau.jpg
Hình
15: Sau lần gặp anh Lê Ngộ Châu ở Mỹ (1994), 5 năm sau gặp lại anh tại toà soạn
Bách Khoa 160 Phan Đình Phùng, Sài Gòn, anh Lê Châu còn rất tráng kiện và minh
mẫn ở tuổi 76; từ phải: Lê Ngộ Châu và Ngô Thế Vinh. [photo by Nghiêm Ngọc
Huân 11/1999]
HÀNH TRÌNH ĐI TÌM
BÁCH KHOA [6]
https://vietbao.com/images/file/6qymU1c42QgBABYW/w600/16-a-chau.jpg
Hình
16a: Khi toàn bộ báo 426
số báo Bách Khoa được sưu tập và số hoá (2017) thì Lê Ngộ Châu đã mất trước đó
11 năm, thọ 84 tuổi (1923-2006), với thời gian, tên tuổi Lê Ngộ Châu vẫn toả
sáng, được các cây bút cộng tác xem Lê Ngộ Châu như “linh hồn” của báo Bách
Khoa cho tới năm 1975. [5]
https://vietbao.com/images/file/povsWFc42QgBAH4u/w600/16-b-chau.jpg
Hình
16b: trái, đĩa DVD chứa
toàn bộ 426 số báo Bách Khoa được số hoá / digitalized hoàn tất ngày 15/10/2017
do công trình sưu tập của chị Phạm Lệ Hương [6], là một thủ thư lâu năm và anh Phạm Phú Minh chủ bút Diễn đàn Thế Kỷ. [5] phải, Phạm Lệ Hương và Phạm Phú Minh đang cắt bánh mừng bộ đĩa Bách Khoa
đã thành tựu. Sau đó bộ báo Bách Khoa được lưu trữ / phổ biến miễn phí trên Thư
viện Người Việt Online với link https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Phục hồi Di sản Văn học Miền Nam là mối ưu tư
của nhiều người, trong đó có phần tìm lại toàn bộ báo Bách Khoa và đó là công
lao của hai khuôn mặt rất quen thuộc trong sinh hoạt văn học ở hải ngoại: chị
Phạm Lệ-Hương và anh Phạm Phú Minh. Cả hai đã rất thành công trong việc tổ chức
cuộc Hội Thảo về Tự Lực Văn Đoàn, Hội Thảo Trương Vĩnh Ký với việc xuất
bản cuốn Kỷ yếu TLVĐ, Kỷ yếu Triển Lãm và Hội Thào Trương Vĩnh Ký là những
tài liệu được đánh giá rất cao cả ở bên trong và ngoài nước. Cuộc hành trình đi
tìm Bách Khoa không đơn giản, với công sức đóng góp của nhiều người khác nữa
nhưng kết quả cuối cùng là toàn bộ 426 số báo Bách Khoa được sưu tập trọn vẹn,
được số hoá và upload lên internet. Kể từ đây, Bách Khoa đã phục sinh, để cùng
sống với những thế hệ mai sau xa hơn cả “tam bách dư niên hậu”. [6]
*
Lê Ngộ Châu mất
ngày 24/9/2006 năm Bính Tuất tại Sài Gòn, thọ 84 tuổi. Linh cữu được quàn tại
Nhà tang lễ Thành phố trên đường Lê Quý Đôn Quận 3 Sài Gòn. Ông được an táng
trong khu đất riêng của chùa Phổ Chiếu, Gò Vấp. [Hình 17b] Lê Ngộ Châu đã để lại
rất nhiều tiếc thương cho những người từng được quen biết và làm việc với ông.
Nguyễn Minh Hoàng, một dịch giả cộng tác viên lâu năm của Bách Khoa ngày nào,
đã viết hai câu thơ viếng cảm động trong sổ tang của gia đình Lê Ngộ Châu:
Duyên nợ Bách Khoa, anh vội ra đi, mây chiều gió sớm,
Cuộc đời dâu biển, tôi còn ở lại, ra ngẩn vào ngơ…
https://vietbao.com/images/file/a9QfXVc42QgBAD1x/w600/17-a-chau.jpg
Hình
17a: Bà Nghiêm Ngọc Huân Lê Ngộ Châu, và các ông Lê Phương Chi, Trần Văn
Chánh, Dũ Lan Lê Anh Dũng tại nhà tang lễ Thành phố Chủ Nhật 24/09/2006. [4]
Mang Viên Long, một
nhà thơ trẻ miền Trung từng viết cho Bách Khoa, nay vẫn còn nhớ ngày anh
Lê Ngộ Châu mất: “Hôm nay – gần đến ngày giỗ thứ 5 của Anh, nơi chốn quê nhà
quạnh hiu này – tôi lại nhớ anh: “Một nhà báo chân chính, tài năng , và vô
cùng độ lượng đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp văn học! Xin được thắp cho anh
một nén hương muộn nhưng rất chí tình.”
https://vietbao.com/images/file/hPTcX1c42QgBAPRT/w600/17-b-chau.jpg
Hình
17b: mộ bia Lê Ngộ Châu,
anh được chôn cất trong nghĩa trang gia đình nơi sân sau ngôi chùa Phổ
Chiếu, địa chỉ : 93/1023 Nguyễn Văn Lượng, P.6, Quận Gò Vấp, Sài Gòn.
[photo
by L.A. 05/2021]
Bài viết này như một tưởng niệm 98 năm sinh của anh Lê Ngộ Châu. Để kết luận,
có thể nói rằng: nếu không có chủ nhiệm sáng lập Huỳnh Văn Lang, sẽ không có một
tờ báo mang tên Bách Khoa từ 1957. Nhưng nếu không có được cái “nhẫn” và tài
năng điều hành toà soạn 160 Phan Đình Phùng của Lê Ngộ Châu, sẽ không có một tạp
chí Bách Khoa khởi sắc với 426 số báo với tuổi thọ 18 năm cho tới 1975 và cũng
sẽ không có một bộ báo Bách Khoa như một công trình văn hoá đồ sộ của miền
Nam để lưu lại cho các thế hệ mai sau và chúng tôi vẫn mãi biết ơn Anh.
NGÔ THẾ VINH
California 26/06/2021
[Tưởng niệm 98 năm sinh Lê Ngộ Châu]
THAM KHẢO:
1/Ngô Thế Vinh. Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật
& Văn Hoá.
Việt Ecology Press 2017
2/Trần Hoài Thư. Thư Quán Bản Thảo số 48, chủ đề viết
về tạp chí Bách Khoa
https://tranhoaithu42.com/tqbt-so-48-tap-chi-bach-khoa/
3/Đặng Tiến. Ông Lê Ngộ Châu, 160 Phan Đình Phùng.
https://damau.org/9238/le-ngo-chau-160-phan-dinh-phung
4/Dũ Lan Lê Anh Dũng. Vĩnh biệt ông Bách Khoa
Lê Ngộ Châu. http://vietsciences.free.fr
5/ Phạm Phú Minh. Bách Khoa điện tử Toàn tập [từ số
1 tới 426], Thư Viện Người Việt Online. https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php
6/ Phạm, Lệ-Hương. Hành trình đi tìm Bách Khoa. Phỏng
vấn cá nhân.
Huntington Beach 21/6/2021. – p.16
7/ Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Một Chương
Hồi ký, Tập Ba ([trang 208 – 219). Tác giả Xuất bản 2001
No comments:
Post a Comment