Tuesday, 29 June 2021

NHÌN LẠI 100 NĂM ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC - NHỮNG KHOẢNH KHẮC TỰ DO (Willy Wo-Lap Lam  -  The Jamestown Foundation)

 



Nhìn lại 100 năm Đảng Cộng sản Trung Quốc – những khoảnh khắc tự do

Willy Wo-Lap Lam  -  The Jamestown Foundation

Lê Minh Nguyên, dịch        

28/06/2021

https://baotiengdan.com/2021/06/28/nhin-lai-100-nam-dang-cong-san-trung-quoc-nhung-khoanh-khac-tu-do/

 

Giới thiệu 

Sau khi Mao Trạch Đông (1893-1976) trở thành nhà lãnh đạo không thể tranh cãi của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), năm 1936, ông bắt đầu thanh trừng toàn diện thế hệ trí thức có tư tưởng tự do từ sớm trong đảng ngay trụ sở tạm thời của đảng ở Diên An, tỉnh Thiểm Tây.

 

Kể từ đó, ĐCSTQ phần lớn tuân theo mệnh lệnh của Mao rằng “quyền lực chính trị bắt nguồn từ nòng súng” và cả đảng viên cũng như công dân phải là “răng bánh xe của cỗ máy” trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của đảng. Việc tẩy não và thanh trừng tàn nhẫn những ai phản đối chế độ độc tài của Mao vẫn là mệnh lệnh cho đến khi kết thúc cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1976.

 

Trước khi trở thành lãnh đạo tối cao của đảng và nhà nước TQ vào năm 1949, Mao đã từng đóng vai trò là người ủng hộ dân chủ trong nhiều cuộc phỏng vấn với các cơ quan truyền thông phương Tây. Trong một cuộc họp báo năm 1944 với các thành viên báo chí châu Âu và Mỹ, ông nói “TQ có nhiều thiếu sót, trong đó nghiêm trọng nhất là thiếu dân chủ”, ông nói thêm với khán giả phương Tây “Người TQ cần dân chủ… chỉ có như vậy thì đất nước mới có thể được xây dựng tốt đẹp”. Nhưng ông ta đang nói những lời dối trá để lợi dụng cơ hội.

 

 

Những người theo chủ nghĩa tự do bị thanh trừng và loại trừ từ sớm dưới thời Mao

 

ĐCSTQ kỷ niệm một trăm năm thành lập vào ngày 1/7/2021. Hơn 100 năm qua, đã có những đảng viên và trí thức dũng cảm nghĩ rằng ĐCSTQ nên xoay chiều khỏi chủ nghĩa toàn trị Stalin và áp dụng ít nhất một số giá trị phổ quát về tự do ngôn luận và pháp trị được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc.

 

Quan điểm tự do trong đảng — đáng tiếc không bao giờ trở thành quan điểm chủ đạo — bắt đầu từ người đồng sáng lập Trần Độc Tú (Chen Duxiu 1879-1942), từng là Tổng bí thư đầu tiên của ĐCSTQ và bị đuổi khỏi đảng vào năm 1929, ông ủng hộ tự do dân chủ trong khi là một người theo chủ nghĩa Marxist và sau đó là một Trotskyite. Năm 1940, ông Trần lưu ý rằng “nền dân chủ vô sản… cũng giống như nền dân chủ tư sản, đòi hỏi mọi công dân phải có quyền tự do hội họp, tự do lập hội, tự do ngôn luận, xuất bản và đình công”.

 

Trong thời kỳ “độc tài của giai cấp vô sản” mà đỉnh cao là Cách mạng Văn hóa (1966-1976), hầu hết các trí thức có tư tưởng độc lập đều bị gán cho là “cánh hữu” và phần lớn những người bất đồng chính kiến ​​đầu tiên này bị đày đến vùng biên giới Đông Bắc cằn cỗi hoặc Tân Cương nghèo khó. Một số người theo chủ nghĩa tự do, bao gồm các sinh viên Lin Zhao (1932-1969) và Zhang Zhixin (1930-1975), dám thách thức Mao và đã bị xử tử.

 

Các nhà văn nổi tiếng, bao gồm tiểu thuyết gia Lão Cô hay còn gọi là Shu Qingchun (1899-1966), Deng Tuo (1912-1966) và Wu Han (1909-1969) hoặc tự tử hoặc chết trong tù. Nó để lại cho Đặng Tiểu Bình (1904-1997) và hai người kế vị đầu tiên được chỉ định của ông là Hồ Diệu Bang (Hu Yaobang 1915-1989) và Triệu Tử Dương (Zhao Ziyang 1919-2005) nhặt các mảnh vụn sau khi Mao qua đời năm 1976.

 

 

Cải cách và mở cửa của Đặng Tiểu Bình

 

Đặng, Hồ và Triệu đã dẫn đầu phong trào giải phóng tư tưởng, có thể được tóm tắt bằng câu nói “thực hành là tiêu chí duy nhất của chân lý.” Nó cho rằng một chính sách chỉ có thể được xác nhận sau khi thử nghiệm thành công. Cuộc cải cách tư tưởng này đã giải phóng dân tộc khỏi sự sai khiến mù quáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông.

 

Các cải cách chính trị thời hậu Mao của Đặng bao gồm việc cho phép các cuộc bầu cử cấp làng xã, xóa bỏ sự sùng bái cá nhân, thiết lập cơ chế nghỉ hưu và chuyển quyền lãnh đạo cũng như tách đảng và chính phủ thành hai định chế riêng.  Kiến trúc sư vĩ đại của Cải cách này nói thêm rằng, cơ chế thị trường có thể được sử dụng bởi cả các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản, do đó mở ra con đường cho các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài đóng những vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Người kế nhiệm họ Đặng là Triệu, từng giữ chức Thủ tướng TQ từ 1980-1987 và Tổng bí thư ĐCSTQ từ 1987-1989, đã rất ấn tượng với hệ thống kinh tế thị trường tự do (laissez-faire) của phương Tây đến mức ông thường xuyên tham khảo ý kiến ​​của các nhà kinh tế phương Tây và Trung Quốc ở nước ngoài về các hoạt động kinh tế tư bản.

 

Sự kiện Thiên An Môn đánh dấu một bước lùi toàn diện của tiến trình tự do hóa chính trị theo kiểu Đặng, nhưng ngay cả sau khi quay lưng lại với các cải cách chính trị, Đặng vẫn muốn thúc đẩy ít nhất một số chính sách kinh tế theo định hướng thị trường. Nhờ vậy, cuối cùng nó đã tạo điều kiện cho TQ gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, mà các nhà lãnh đạo hàng đầu vào thời điểm đó là chủ tịch Giang Trạch Dân (1926-) và thủ tướng Chu Dung Cơ (1928-) nhận được một phần công lao.

 

Nhiều trí thức khi đó nêu ra viễn cảnh có hơi lạc quan quá mức rằng việc TQ “bước vào thế giới” có nghĩa là quốc gia độc tài này có thể không chỉ áp dụng các chuẩn mực tài chính kiểu phương Tây mà còn áp dụng các giá trị toàn cầu trong quản trị dựa trên nền tảng luật pháp.

 

Theo ông Qin Benli (1918-1991) tổng biên tập của tờ World Economic Herald – một tờ báo tiên phong bị đóng cửa vào năm 1989 – thì một trong những mục tiêu chính của tiến trình hiện đại hóa TQ đã đạt được để trở thành “Thành viên trên thế giới” là: Sự công nhận có tính cách toàn cầu rằng TQ tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Các quan chức và học giả có khuynh hướng tự do lạc quan rằng sau khi TQ gia nhập WTO, việc nước này áp dụng các tiêu chuẩn toàn cầu trong quản trị sẽ đẩy nhanh các cải cách kinh tế và có lẽ cả cải cách chính trị.

 

Dưới sự lãnh đạo của Hồ Cẩm Đào (1942-), người giữ chức vụ Tổng Bí thư ĐCSTQ từ năm 2002-2012, TQ nói chung trở nên tự do hơn so với người tiền nhiệm của ông là Giang Trạch Dân. Hồ chủ yếu tuân theo chính sách mở cửa kinh tế do quốc sư kinh tế Chu Dung Cơ đặt ra. Trong lĩnh vực chính trị, Hồ đã khởi xướng cái gọi là “dân chủ trong nội bộ đảng”, thực hiện các cải cách cho phép các quan chức cấp địa phương được lựa chọn một phần thông qua sự giới thiệu của công chúng; cho phép bầu trực tiếp bí thư chi bộ thị trấn, thôn quê; và bầu cử cha’e (cha’e xuanze) cho Ủy ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ, có nghĩa là số lượng ứng cử viên cho cơ quan cầm quyền cao nhất sẽ vượt quá các vị trí hiện có.

 

Nhà khoa học chính trị của Đại học Bắc Kinh, ông Yu Keping, bày tỏ hy vọng rằng các biện pháp tự do hóa tiệm tiến bên trong ĐCSTQ sẽ dần dần lan toả xuống các khu vực phi đảng phái. Một tiến trình tự do hóa khác do Hồ thúc đẩy là cho phép thế hệ đầu tiên của các tổ chức phi chính phủ TQ được tự do hoạt động mà không cần sự giám sát trực tiếp của đảng, nó mang lại lợi ích cho xã hội dân sự.

 

Thủ tướng Ôn Gia Bảo (1942-), một phụ tá có tư tưởng cải cách của Triệu, thậm chí trên lý thuyết còn ủng hộ cho việc TQ thông qua Hiến chương Nhân quyền của Liên Hiệp quốc.  Trong một bài báo gây chú ý của Tân Hoa xã vào năm 2007, Ôn đã viết rằng, “khoa học, dân chủ, hệ thống luật pháp, tự do và nhân quyền là… những giá trị chung mà nhân loại theo đuổi”. Sau đó, ông nói với truyền thông phương Tây rằng “chúng ta cần xây dựng một hệ thống tư pháp độc lập và công bằng” và rằng “chính phủ cần phải chấp nhận sự giám sát của giới truyền thông và các tổ chức khác”.

 

Tuy nhiên, tiến trình tự do hóa cũng gặp phải những trở ngại, khi mà các nhà lãnh đạo đảng vào đầu thế kỷ 21 tiếp tục ưu tiên cho việc duy trì kiểm soát và ổn định. Chính quyền Hồ-Ôn cũng chịu trách nhiệm về việc đàn áp phong trào Hiến chương 08, do người đoạt giải Nobel Hòa bình đã quá cố Lưu Hiểu Ba (1955-2017) và 300 trí thức hàng đầu khác khởi xướng. Được mô phỏng theo phong trào Hiến chương 77 ở Tiệp Khắc do Liên Xô cai trị, Hiến chương 08 kêu gọi đảng cho phép tự do ngôn luận, hội họp, tôn giáo và thành lập một cơ quan tư pháp độc lập. Nó được ký tên ủng hộ bởi hơn 10.000 người ở cả TQ và nước ngoài. Lưu bị bắt vào năm 2009 với tội danh lật đổ và bị phạt tù 11 năm. Cuối cùng, ông đã chết trong tù vào năm 2017, chủ yếu do không được điều trị căn bệnh ung thư gan giai đoạn cuối.

 

 

Sự phục hồi chủ nghĩa Mao của Tập Cận Bình

 

Tất cả các cải cách đều bị đóng băng dưới thời quay về Mao của Tập Cận Bình (1953 -), là người đã trở thành Tổng Bí thư ĐCSTQ năm 2012 và sau đó đã áp dụng lại nhiều chính sách chính trị và kinh tế dựa theo tư tưởng Mao. Ông Tập thường nhắc lại khẩu hiệu của Hồ “Những gì chúng ta sở hữu trong quá khứ không nhất thiết thuộc về chúng ta bây giờ; những gì chúng ta sở hữu bây giờ có thể không phải là của chúng ta mãi mãi” – nhấn mạnh nhu cầu quan trọng hàng đầu của ĐCSTQ là phải nắm giữ độc quyền hoàn toàn quyền lực.

 

Bất chấp sự kiểm soát chặt chẽ mà ông Tập – có biệt danh là “Chủ tịch của mọi thứ” – tóm thu trong bộ máy đảng-nhà nước-quân đội, một số nhà lãnh đạo chính trị và trí thức vẫn ủng hộ tự do hóa kinh tế và chính trị theo kiểu Đặng. Ít nhất là trong vài năm đầu tiên của nhiệm kỳ thủ tướng, ông Lý Khắc Cường (1955-), người đứng đầu Hội đồng Nhà nước vào năm 2013, nhấn mạnh việc hạn chế sự can thiệp của chính phủ và dành lối đi thoáng hơn cho các lực lượng thị trường.

 

Ông [Lý] nói: “Chúng ta phải có quyết tâm của một người lính dũng cảm [không sợ] chặt đứt cánh tay của chính mình”, khi đề cập đến việc hạn chế sự can thiệp của nhà  nước vào các lực lượng thị trường. Thủ tướng Lý nói thêm rằng, phải giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ để “tăng tốc độ phát triển lành mạnh của nền kinh tế, của xã hội và giảm bớt gánh nặng của chính phủ”.

 

Giáo sư quan hệ quốc tế đã nghỉ hưu và là chuyên gia TQ nghiên cứu về Mỹ, bà Zi Zhongyun (1930-) đã lập luận rằng sự gia tăng cạnh tranh với phương Tây có thể là một điều tốt, khiến cho chính phủ “cuối cùng phải khôi phục lại bản chất phục vụ nhân dân, chứ không phải duy trì  độc quyền”. Bà Zi, từng là thông dịch viên của Mao, cũng lưu ý rằng TQ có nhiều điều để học hỏi từ Mỹ, đặc biệt là trong các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc y tế và chăm sóc người già.

 

Bà nói: “Nếu các bệnh viện kiểu Mỹ phát triển mạnh ở TQ thì mô hình y tế hút máu của TQ sẽ bị biến mất” và “Nếu nền giáo dục kiểu Mỹ bắt rễ ở TQ thì sinh viên TQ không cần ra nước ngoài để tận hưởng các khái niệm sư phạm tiên tiến”. Bà nói thêm rằng một hệ thống kinh tế đượm phần tư bản chủ nghĩa sẽ có nghĩa là lãi suất thấp hơn, tiềm năng tăng trưởng lớn hơn cho khu vực tư nhân và sự nở rộ của một xã hội tiêu dùng phát triển hơn.

 

Bà Cai Xia (1952-), một nhà bất đồng chính kiến ​​người TQ và là cựu giáo sư chính trị tại Trường Đảng Trung ương (CPS), thậm chí còn mạnh dạn hơn khi chỉ trích sự thụt lùi của những cải cách. Bà gọi ĐCSTQ là “thây ma chính trị” và thậm chí đề xuất rằng nên thay thế ông Tập như một bước đầu tiên để cứu đảng khỏi sự tự huỷ. Bà lặp lại tuyên bố trước đó của cựu Thủ tướng Ôn “Nếu cải cách chính trị không tiến triển thì cải cách kinh tế không thể đạt được tiến bộ nào”.

 

Bà Cai kêu gọi cải tổ các cuộc bầu cử, mở rộng tự do ngôn luận và tăng cường sự giám sát của truyền thông lên bộ máy đảng-nhà nước. Nhưng, những chỉ trích của bà đã làm đảng phẫn nộ, bà bị tước quyền đảng viên vào tháng 8/2020. Bà Cai hiện đang sống lưu vong tại Mỹ.

 

 

Kết luận

 

Khi đảng chuẩn bị kỷ niệm 100 năm thành lập, nhà lãnh đạo tối cao Tập tuyên bố rằng, TQ đã bước vào “giai đoạn mới của chủ nghĩa xã hội mang đặc tính TQ”. Bộ máy tuyên truyền chỉ ra rằng Tư tưởng Tập Cận Bình sẽ là tinh thần chỉ đạo trong các vấn đề từ tài chính, phúc lợi xã hội đến chính sách đối ngoại và quân sự. Theo ông Tập, “con đường Trung Quốc” thích hợp hơn là “mô hình phương Tây” cho sự phát triển trong tương lai của thế giới, và ông cũng đã đưa ra tầm nhìn quốc tế về một “cộng đồng có vận mệnh chung cho nhân loại” được dẫn dắt bởi sự lãnh đạo chủ yếu của TQ trong  cộng đồng toàn cầu.

 

Mặc dù nhiều người đã viết về “mô hình Trung Quốc” mà cơ bản nó bao gồm chủ nghĩa độc tài cứng rắn, bộ máy nhà nước-công an trị, sự kiểm soát của đảng-nhà nước lên hầu hết nền kinh tế, và chủ nghĩa dân tộc cực đoan công khai. Đặc biệt, chính quyền Tập đã dựa vào sự thao túng lịch sử để củng cố tính chính danh của đảng. Lễ kỷ niệm một trăm năm có ý nghĩa quan trọng đối với giới lãnh đạo ĐCSTQ, các phương tiện truyền thông đã nhấn mạnh cách TQ thành công trong việc chống lại các chủ nghĩa đế quốc cũ và mới — bao gồm cả các cường quốc phương Tây do Mỹ lãnh đạo kể từ Thế chiến II — và đồng thời cho thấy “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc TQ”.

 

Những sai lầm tồi tệ bao gồm Ba năm chết đói của Mao, thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6/1989 của Đặng, hệ thống giám sát và đàn áp bằng kỹ thuật số của Tập – những điều xảy ra ở Tân Cương dẫn đến cái mà ngày càng nhiều nước phương Tây gọi là tội ác chống lại loài người và diệt chủng – là các chủ đề mà hiếm khi được các phương tiện truyền thông nhà nước, với sự kiểm duyệt gắt gao, đề cập đến.

 

Trong những năm qua, Chủ tịch Tập đã đề cao nhu cầu ổn định chính trị và an ninh quốc gia để tránh các sự kiện bất ngờ (black swan). Sự siết chặt của ĐCSTQ đối với xã hội dân sự – thể hiện qua việc gần đây tăng án tù ngay cả đối với những người bình luận trên Internet – việc gia tăng đàn áp này nó phản bội lại nỗi sợ hãi dữ dội của giới lãnh đạo đảng cho rằng nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và sức mạnh quân sự toàn cầu đang phát triển nhanh không thể chỉ dựa vào vũ lực đối với các công dân để họ phục tùng.

 

Nhưng không có gì cho thấy ông Tập và các cố vấn của ông sẽ xem xét lời khuyên đầy ý nghĩa của các cán bộ và trí thức theo khuynh hướng tự do kể từ khi thành lập ĐCSTQ, rằng con đường phía trước cần phải bao hàm các giá trị quốc tế đích thực.

 

 

 

No comments:

Post a Comment

View My Stats