Friday, 25 June 2021

CANH BẠC CỦA TẬP CẬN BÌNH (Jude Blanchette - Foreign Affairs)

 



Canh bạc của Tập Cận Bình

Jude Blanchette  -  Foreign Affairs  

Trần Giao Thủy chuyển ngữ

POSTED ON JUNE 23, 2021

https://dcvonline.net/2021/06/22/canh-bac-cua-tap-can-binh/

 

https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2021/06/xi_great-wall_jason-lee_gettyimages-168135152.jpg

Ở Trung Hoa của Tập, mọi thứ cũ đều mới trở lại trong chính sách đối ngoại. Bản quyền: 2013 Getty Images

 

Cuối cùng, Tập có thể đúng rằng mười năm tới sẽ quyết định thành công lâu dài của Trung Hoa. Điều mà ông ta có thể không hiểu là chính ông ta có thể là trở ngại lớn nhất.

 

http://www.andrewerickson.com/wp-content/uploads/2021/06/Screen-Shot-2021-06-23-at-3.32.57-PM.png

Tập Cận Bình ở Rome, tháng 3 năm 2019. Paolo Tre / A3 / Contrasto / Redux

 

Tập Cận Bình là một người đang có nhiệm vụ lớn. Sau khi lên nắm quyền vào cuối năm 2012, ông đã nhanh chóng củng cố quyền lực chính trị, thanh lọc Đảng Cộng sản Trung Hoa (ĐCSTH) đang bị tham nhũng tràn lan, gạt kẻ thù ra ngoài vòng quyền lực, chế ngự các tập đoàn tài chính và kỹ thuật cao một thời của Trung Hoa, dẹp tan bất đồng nội bộ và mạnh mẽ khẳng định ảnh hưởng của Trung Hoa trên trường quốc tế. Với danh nghĩa bảo vệ “lợi ích cốt lõi” của Trung Hoa, Tập đã gây chiến với nhiều nước láng giềng và các quốc gia thù địch ở xa hơn — đặc biệt là Hoa Kỳ. Trong khi những người tiền nhiệm ngay trước ông tin rằng Trung Hoa phải tiếp tục trì hoãn thời gian bằng cách giám sát tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sự mở rộng ảnh hưởng ổn định của Trung Hoa bằng việc hội nhập có chiến thuật vào trật tự toàn cầu hiện có, thì Tập lại thiếu kiên nhẫn với hiện trạng, lại chịu chấp nhận rủi ro cao, và dường như ông ta cảm thấy cần cấp bách và rõ rệt trong việc thách thức trật tự quốc tế.

 

Tại sao ông ấy lại vội vàng như vậy? Hầu hết giới quan sát đã đưa ra một trong hai giả thuyết hoàn toàn trái ngược nhau. Ý kiến ​​thứ nhất cho rằng Tập đang thúc đẩy một loạt các sáng kiến ​​chính sách nhằm mục đích không kém gì việc thiết lập lại trật tự toàn cầu theo những điều kiện có lợi cho ĐCSTH. Quan điểm khác khẳng định rằng ông là người giám sát đang lo lắng cho một hệ thống chính trị theo chủ nghĩa Lenin lỗi thời và tồi tàn đang đấu tranh để giữ quyền lực. Cả giả thiết đều có một số những yếu tố của sự thật, nhưng không giải thích thỏa đáng nguồn gốc của cảm giác cấp bách của Tập Cận Bình.

 

Một lời giải thích chính xác hơn là các tính toán của Tập không được xác định vì nguyện vọng hay nỗi sợ hãi mà do thời điểm của ông trong lịch sử. Nói một cách đơn giản, Tập đã củng cố quá nhiều quyền lực và làm đảo lộn hiện trạng với sức mạnh như vậy vì ông nhận thấy chỉ có một cơ hội hẹp từ 10 đến 15 năm, trong đó Bắc Kinh có thể tận dụng một loạt các chuyển đổi kỹ thuật và địa chính trị quan trọng, điều này cũng sẽ giúp họ vượt qua những thách thức nội bộ đáng kể. Tập coi sự hội tụ của những luồng gió mạnh về dân số, sự suy giảm cơ cấu kinh tế, những tiến bộ nhanh chóng trong kỹ thuật số và sự thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu so với Hoa Kỳ như những gì ông gọi là “những thay đổi sâu sắc chưa từng thấy trong một thế kỷ”, đồi phải có một tập hợp sự trả lời táo bạo ngay lập tức.

 

Bằng cách thu hẹp tầm nhìn trong 10 đến 15 năm tới, Tập đã truyền cho hệ thống chính trị Trung Hoa ý thức tập trung và quyết tâm có thể giúp Trung Hoa vượt qua những thách thức lâu dài trong nước và đạt được mức độ trung tâm toàn cầu mới. Nếu Tập thành công, Trung Hoa sẽ tự định vị mình như một kiến ​​trúc sư của kỷ nguyên đa cực mới nổi, nền kinh tế của nước này sẽ thoát khỏi cái gọi là bẫy thu nhập trung bình, và khả năng kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất và quân sự sẽ sánh ngang với các nước phát triển hơn.

 

Tuy nhiên, tham vọng và sự thực hiện không như nhau, và Tập hiện đã đặt Trung Hoa vào một quỹ đạo đầy rủi ro, một quỹ đạo đe dọa những thành tựu mà những người tiền nhiệm của ông đã đạt được trong thời kỳ hậu Mao. Ông tin rằng ĐCSTH phải định hướng nền kinh tế và việc Bắc Kinh kiềm chế khu vực tư nhân sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế trong tương lai của Trung Hoa. Tập đòi hỏi cán bộ đảng phải tuân theo sự chính thống của ý thức hệ và thể hiện lòng trung thành của cá nhân họ đối với ông sẽ làm suy yếu tính linh hoạt và khả năng của hệ thống quản trị. Việc ông nhấn mạnh vào một định nghĩa rộng lớn về an ninh quốc gia sẽ đưa đất nước đi theo hướng hướng nội và hoang tưởng hơn. Việc ông giải phóng chủ nghĩa dân tộc “Chiến Lang” sẽ tạo ra một Trung Hoa hung hăng và cô lập hơn. Cuối cùng, vị trí ngày càng độc tôn của Tập trong hệ thống chính trị của Trung Hoa sẽ ngăn cản các lựa chọn thay thế chính sách và điều chỉnh đường lối, một vấn đề đã trở nên tồi tệ hơn khi ông loại bỏ các giới hạn nhiệm kỳ và viễn cảnh ông cầm quyền vô thời hạn.

 

Tập tin rằng ông có thể tạo dựng tương lai của Trung Hoa cũng như các hoàng đế trong quá khứ xa vời của Hoa lục. Ông ta nhầm lẫn sự kiêu ngạo này với sự tự tin — và không ai dám nói khác với ông ta. Một môi trường mà trong đó một nhân vật lãnh đạo toàn năng với sự tập trung theo đuội một mujch đích duy nhất không thể nghe thấy những sự thật khó chịu là công thức dẫn đến thảm họa, như lịch sử hiện đại của Trung Hoa đã chứng minh quá rõ.

 

MỘT NGƯỜI VỘI VÃ

 

Khi nhìn lại, thời biểu dồn ép của Tập đã quá rõ ràng kể từ khi ông bắt đầu nhiệm kỳ. Trung Hoa đã quen với tốc độ của Hồ Cẩm Đào, chậm rãi và nghiêm nghị, và nhiều người mong đợi Tập sẽ làm theo, mặc dù tập trung nhiều hơn vào cải cách kinh tế. Tuy nhiên, trong vòng vài tháng sau khi nắm quyền vào năm 2012, Tập đã bắt đầu sắp xếp lại cục diện chính trị và kinh tế trong nước. Đầu tiên là phần dọn dẹp nhà cửa từ trên xuống dưới trong ĐCSTH. Đảng cộng sản Trung Hoa đã nhiều lần chứng tỏ khả năng chống chọi với những trận giông bão trong nước, nhưng áp lực đang gia tăng trong hệ thống. Tham nhũng đã trở nên phổ biến, dẫn đến sự bất mãn của quần chúng và phá vỡ kỷ luật tổ chức. Số đảng viên bình thường của đảng đang tăng nhanh nhưng ngày càng đầy những cá nhân không cùng quan điểm với Tập về niềm tin vào chủ nghĩa ngoại hạng của ĐCSTH. Các chi bộ đảng trong doanh nghiệp nhà nước, công ty tư nhân và các tổ chức phi chính phủ ngủ gục hay hoạt động vô tổ chức. Việc quyết định ở cấp cao đã trở nên thiếu phối hợp và khó khăn. Các cơ quan tuyên truyền của đảng đã phải vật lộn để trình chiếu thông điệp của họ tới một tập thể công dân ngày càng hoài nghi và hiểu biết nhiều hơn về kỹ thuật.

 

Tập đã đồng thời đối đầu tất cả những vấn đề này. Chỉ riêng trong năm 2013, ông đã khởi xướng một chiến dịch chống tham nhũng sâu rộng, phát động một chiến dịch “hàng loạt quần chúng” nhằm loại bỏ đa nguyên chính trị và các ý thức hệ tự do khỏi diễn ngôn của công chúng, công bố các hướng dẫn mới hạn chế việc tăng đảng viên và đặt thêm những đòi hỏi mới về ý thức hệ đối với người muốn trở thành đảng viên. Tập tin rằng số đảng viên nhiều hay ít không quan trọng lắm nếu nó không phải là những tín đồ chân chính. Sau cùng, ông lưu ý, khi Liên Xô trên bờ vực sụp đổ vào đầu những năm 1990, “theo tỷ lệ, Đảng Cộng sản Liên Xô có nhiều thành viên hơn [ĐCSTH], nhưng không ai đủ sức đứng lên và chống lại.”

 

Tập Cận Bình là một người mang nhiệm vụ.

 

Tiếp theo trong chương trình nghị sự của Tập là nhu cầu khẳng định lợi ích của Trung Hoa trên trường thế giới. Tập nhanh chóng bắt đầu các nỗ lực đắp đảo ở Biển Đông, thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên lãnh thổ tranh chấp ở Biển Hoa Đông, giúp thành lập Ngân hàng Phát triển Mới (đôi khi được gọi là Ngân hàng BRICS), công bố dự án cơ sở hạ tầng quốc tế khổng lồ. được gọi là Sáng kiến ​​Một Vành đai Một Con đường, và do Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á đề xướng.

 

Tập tiếp tục chém chặt hệ thống cũ trong phần sau của nhiệm kỳ đầu tiên và không có dấu hiệu giảm bớt khi ông gần kết thúc nhiệm kỳ thứ hai. Việc củng cố quyền lực của ông tiếp tục không bị gián đoạn: ông không phải đối mặt với các đối thủ chính trị thực sự, đã loại bỏ các giới hạn nhiệm kỳ trong nhiệm kỳ của mình và đã cài đặt các đồng minh và những người trung thành vào các vị trí quan trọng. Các trung tâm nghiên cứu mới dành riêng cho việc nghiên cứu các bài viết và bài phát biểu của ông, các quan chức đảng công khai khai thác trí tuệ và phẩm hạnh của ông, các quy định của đảng và tài liệu kế hoạch của chính phủ ngày càng tuyên bố dựa trên “Tư tưởng Tập Cận Bình”. Ông ta đã khẳng định sự thống trị của ĐCSTH trên nhiều vùng rộng lớn của xã hội và đời sống kinh tế Trung Hoa, thậm chí buộc những công ty kinh doanh và kỹ thuật khổng lồ có ảnh hưởng phải cầu xin được tha thứ vì không có đủ lòng trung thành với đảng. Trong khi đó, Tập tiếp tục mở rộng phạm vi ảnh hưởng quốc tế của Trung Hoa bằng thực thi quyền lực cứng, cưỡng ép kinh tế và hội nhập sâu rộng vào các cơ quan quốc tế và đa phương.

 

Nhiều nhà quan sát bên ngoài, kể cả tôi, ban đầu tin rằng việc đảng này không thể ngăn chặn sự bùng phát của COVID-19 đã nêu bật những điểm yếu của hệ thống của Trung Hoa. Tuy nhiên, vào mùa hè năm 2020, Tập đã có thể dùng các ưu điểm của quyền kiểm soát tập trung trong việc kiểm tra sự lây lan của đại dịch trong nước. Khác xa với việc làm suy yếu quyền lực chính trị của ông ta, phương pháp giải quyết đại dịch bằng quả đấm sắt của Bắc Kinh để chống lại virus giờ đây đã trở thành một điểm tự hào dân tộc.

 

MỘT THỜI KHẮC ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ

 

Tốc độ nhanh chóng của Tập được kích thích do sự hội tụ của những thay đổi về địa chính trị, nhân khẩu học, kinh tế, môi trường và kỹ thuật. Những rủi ro mà chúng gây ra rất đáng sợ, nhưng chưa hiện hữu; Bắc Kinh có một cơ hội để giải quyết chúng trước khi chúng trở thành thảm họa. Và phần thưởng mà chúng có thể đem lại là đáng kể.

 

Thay đổi lớn đầu tiên là đánh giá của Bắc Kinh rằng sức mạnh và ảnh hưởng của phương Tây đã bước vào giai đoạn suy giảm nhanh chóng và kết quả là một kỷ nguyên đa cực mới đã bắt đầu, một kỷ nguyên mà Trung Hoa có thể định hình nhiều hơn theo ý thích của mình. Quan điểm này được giữ vững khi các cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Afghanistan và Iraq trở thành những vũng lầy, và nó càng vững chắc sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, mà giới lãnh đạo Trung Hoa coi là hồi chuông báo tử cho uy tín toàn cầu của Hoa Kỳ. Vào năm 2016, việc người Anh bỏ phiếu rời Liên minh châu Âu và việc Donald Trump được bầu làm tổng thống ở Hoa Kỳ đã củng cố quan điểm đồng thuận rằng Hoa Kỳ và phương Tây nói chung, đang suy thoái. Điều này có thể cho thấy rằng Trung Hoa có thể lựa chọn sự kiên nhẫn chiến lược và chỉ cần để cho sức mạnh của Mỹ tự suy yếu. Nhưng khả năng đổi mới ban lãnh đạo của Hoa Kỳ do sự ra đời của chính quyền Biden — và những lo ngại về cái chết của Tập (ông sẽ 82 tuổi vào năm 2035) — có nghĩa là Bắc Kinh không muốn chờ xem giai đoạn suy tàn này của phương Tây sẽ kéo dài bao lâu.

 

Lực lượng quan trọng thứ hai đối đầu với Tập là triển vọng kinh tế và dân số đang xấu đi của Trung Hoa. Vào thời điểm ông nhậm chức, dân số Trung Hoa vừa già đi và giảm xuống, và Hoa lục đang phải đối phó với sự gia tăng sắp xảy ra của những người nghỉ hưu, điều này sẽ gây căng thẳng cho hệ thống y tế và lương hưu tương đối yếu của Trung Hoa. Học viện Khoa học Xã hội Trung Hoa hiện dự đoán dân số Trung Hoa sẽ đạt đỉnh vào năm 2029 và một nghiên cứu gần đây trên tạp chí The Lancet dự báo rằng dân số sẽ giảm gần 50% vào cuối thế kỷ này. Mặc dù Bắc Kinh đã chấm dứt chính sách một con hà khắc vào năm 2016, quốc gia này vẫn giảm 15% số trẻ em mới sinh trong 12 tháng qua. Trong khi đó, chính phủ ước tính rằng đến năm 2033, gần một phần ba dân số sẽ trên 60 tuổi.

 

Góp phần vào những vấn đề khó khăn này là lực lượng lao động đang thu hẹp của Trung Hoa và mức lương tăng, trung bình đã tăng 10% kể từ năm 2005. Mức lương lớn hơn có lợi cho người lao động, nhưng giới sản xuất toàn cầu đang ngày càng chuyển hoạt động ra khỏi Trung Hoa và đến các nước có chi phí thấp hơn, khiến một số ngày càng tăng công nhân có khả kỹ thấp ở Trung Hoa thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Và bởi vì chỉ 12,5% lực lượng công nhân của Trung Hoa đã tốt nghiệp đại học (so với 24% ở Hoa Kỳ), việc định vị phần lớn lực lượng lao động của Trung Hoa để cạnh tranh trong những công việc cần khả năng cao trong tương lai sẽ là một cuộc chiến khó khăn.

 

Xi ở Port Moresby, Papua New Guinea, tháng 11 năm 2018. David Gray / TPX Hình ảnh trong ngày / Reuters

 

Liên quan trực tiếp đến bức tranh về tình trạng dân số đáng lo ngại này là sự suy thoái của nền kinh tế Trung Hoa. Với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm giảm từ mức cao 14% năm 2007 xuống mức trung bình một con số như hiện nay, nhiều vấn đề lâu nay mà Bắc Kinh có thể giải quyết, giờ đây đòi hỏi sự chú ý và sẵn sàng chấp nhận nỗi đau kinh tế và chính trị, từ việc giải tỏa hang loạt các công ty mắc nợ đến việc yêu cầu các công ty và cá nhân phải nộp nhiều hơn vào kho thuế của đất nước. Trung tâm của vấn đề tăng trưởng của Trung Hoa là vấn đề năng suất cao.

 

Trong suốt vài thập kỷ đầu tiên của thời kỳ cải cách sau Mao, việc tăng năng suất tương đối dễ dàng, vì nền kinh tế kế hoạch bị giải thể theo hướng có lợi cho các lực lượng thị trường và hàng loạt công dân tự nguyện rời khỏi nông thôn để đến các khu vực thành thị và ven biển vì những hứa hẹn sẽ có công việc lương cao hơn. Sau đó, khi các công ty nước ngoài đầu tư, đem kỹ thuật và kiến thức đến Hoa lục, hiệu quả kỹ nghệ tiếp tục được cải thiện. Cuối cùng, số tiền khổng lồ chi cho cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường bộ và đường sắt, đã tăng sự kết nối và do đó năng suất. Tất cả những điều này đã giúp một nền kinh tế nghèo và phần lớn là nông nghiệp nhanh chóng bắt kịp với các nền kinh tế tiên tiến hơn.

 

Tuy nhiên, vào thời điểm Tập nắm quyền, giới hoạch định chính sách ngày càng khó duy trì đà phát triển mà không tạo ra mức nợ không bền vững, giống như cách họ đã làm để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Hơn nữa, Trung Hoa này đã bão hòa với cơ sở giao thông hạ tầng, vì vậy, thêm một dặm đường bộ hoặc đường sắt cao tốc sẽ không đóng góp nhiều cho tăng trưởng. Và bởi vì hầu hết tất cả những người có khả năng đều đã chuyển từ nông thôn ra thành thị, nên việc di chuyển công nhân cũng sẽ không làm giảm năng suất sản xuất. Cuối cùng, chi phí xã hội và môi trường của mô hình tăng trưởng trước đây của Trung Hoa đã trở nên vừa không bền vững vừa gây mất ổn định, vì ô nhiễm không khí và sự tàn phá môi trường đáng kinh ngạc đã gây ra sự tức giận dữ dội trong tần lớp công dân Trung Hoa.

 

Có lẽ những thay đổi do hậu quả nhất xảy ra trong thời đại của Xi là những tiến bộ trong kỹ thuật mới như trí tuệ nhân tạo, người máy và kỹ thuật y sinh, cùng những tiến bộ khác. Tập tin rằng việc chiếm lĩnh “tầm cao chỉ huy” của những công cụ mới này sẽ đóng một vai trò quan trọng đối với số phận kinh tế, quân sự và địa chính trị của Trung Hoa, và ông đã vận động đảng để biến đất nước thành một cường quốc kỹ thuật cao. Quyết định này gồm việc chi những khoản tiền khổng lồ để phát triển R&D của quốc gia và khả năng sản xuất trong các kỹ thuật được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia, từ chất bán dẫn đến pin. Như Tập đã tuyên bố vào năm 2014, lợi thế của người đi đầu sẽ thuộc về “bất kỳ ai nắm giữ mũi nhọn của sự đổi mới khoa học và kỹ thuật.”

 

Tập cũng hy vọng rằng các kỹ thuật mới có thể giúp ĐCSTH vượt qua, hoặc ít nhất là phá vỡ gần như tất cả các thách thức trong nước của Trung Hoa. Ông tin rằng những tác động tiêu cực của lực lượng công nhân ngày càng thu hẹp có thể bị giảm bớt nhờ sự thúc đẩy mạnh mẽ đối với tự động hóa và mất việc làm trong các ngành kỹ nghệ truyền thống có thể được bù đắp bằng cơ hội trong các lĩnh vực kỹ thuật cao, mới hơn. Vào năm 2014, Tập nói :

 

“Liệu chúng ta có thể cứng rắn trở lại trên trường quốc tế và vượt qua ‘bẫy thu nhập trung bình’ hay không phụ thuộc phần lớn vào việc nâng cao khả năng đổi mới khoa học và kỹ thuật.”  (TẬP CẬN BÌNH / 2014)

 

Kỹ thuật mới cũng phục vụ những mục đích khác. Các công cụ nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo mang đến cho các cơ quan an ninh nội bộ của Trung Hoa những cách thức mới để kiểm soát công dân và trấn áp những người bất đồng chính kiến. Chiến lược “kết hợp quân sự-dân sự” này của đảng cố gắng khai thác những kỹ thuật mới để tăng cường đáng kể khả năng chiến đấu của quân đội Trung Hoa. Và những tiến bộ trong kỹ thuật xanh mang lại triển vọng đồng thời theo đuổi tăng trưởng kinh tế và giảm thiểu ô nhiễm, hai mục tiêu mà Bắc Kinh thường coi là đang căng thẳng.

 

BỆNH HOANG TƯỞNG TRONG CHÍNH TRỊ TRUNG HOA

 

Sự hội tụ của những thay đổi và phát triển này sẽ xảy ra bất kể ai nắm quyền ở Trung Hoa vào năm 2012. Có lẽ một nhân vật lãnh đạo khác sẽ thực hiện một chương trình nghị sự táo bạo tương tự. Tuy nhiên, trong số các nhân vật chính trị đương thời của Trung Hoa, Tập đã chứng tỏ một khả năng vô song trong cuộc đấu đá nội bộ quan liêu. Và ông ấy tin tưởng rõ ràng rằng ông ấy là một nhân vật có ý nghĩa lịch sử, là người nắm trong tay số phận của ĐCSTH.

 

Để thúc đẩy những thay đổi đáng kể, Tập đã giám sát việc xây dựng một trật tự chính trị mới, một trật tự được củng cố bằng sự gia tăng mạnh mẽ quyền lực và thẩm quyền của ĐCSTH. Tuy nhiên, ngoài sự nâng cao quyền lực của đảng, có lẽ di sản quan trọng nhất sẽ là sự tái định nghĩa một cách rộng rãi của Tập về an ninh quốc gia. Ông ủng hộ “khái niệm an ninh quốc gia toàn diện” vào đầu năm 2014, và trong một bài phát biểu vào tháng 4, ông tuyên bố rằng Trung Hoa phải đối đầu với “những yếu tố bên trong và bên ngoài phức tạp nhất trong lịch sử”. Mặc dù điểm này rõ ràng là cường điệu — chiến tranh với Hoa Kỳ ở Nam Hàn và nạn đói trên toàn quốc vào cuối những năm 1950 phức tạp hơn nhiều — thông điệp của Tập đối với hệ thống chính trị rất rõ ràng: một kỷ nguyên mới đầy rủi ro và không chắc chắn đang đối đầu với đảng.

 

Kinh nghiệm lâu dài của ĐCSTH về việc đào thoát, âm mưu đảo chính và lật đổ do các tác nhân bên ngoài dẫn đến chứng hoang tưởng cấp tính, một điều đã lên đến đỉnh điểm vào thời Mao. Tập có nguy cơ thể chế hóa phong cách hoang tưởng này. Một kết quả của việc làm mờ ranh giới giữa an ninh bên trong và bên ngoài là lạm phát đe dọa: những cán bộ đảng ở các khu vực ít tội phạm, ít rủi ro hiện đưa ra cảnh giác về khủng bố, “các cuộc cách mạng màu” và “sự xâm nhập của Cơ đốc giáo”. Ở Tân Cương, những lo ngại về chủ nghĩa ly khai đã được dùng để biện minh cho việc biến toàn bộ khu vực thành một nhà tù kỹ thuật cao lạc hậu. Và ở Hong Kong, Tập đã thiết lập một bộ máy quan liêu “an ninh quốc gia” có thể phớt lờ luật pháp địa phương và hoạt động trong bí mật hoàn toàn vì nó loại bỏ các mối đe dọa coi là có đối với sự cai trị sắt đá của Bắc Kinh. Ở cả hai nơi, Tập đã chứng tỏ rằng ông sẵn sàng chấp nhận sự phản đối của quốc tế khi ông cảm thấy rằng lợi ích cốt lõi của đảng đang bị đe dọa.

Ở trong nước, Tập khơi dậy tình cảm dân tộc chủ nghĩa bằng cách cho rằng Trung Hoa bị kẻ thù bao vây và vây hãm, khai thác cái nhìn sâu sắc về quá khứ đầy cảm xúc (và rất méo mó) và lãng mạn hóa các trận chiến của Trung Hoa chống lại người Nhật trong Thế chiến thứ hai và “chiến thắng” của Trung Hoa trước Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên. Bằng cách cảnh giác rằng Trung Hoa đã bước vào một thời kỳ có nhiều rủi ro từ “các thế lực thù địch nước ngoài”, Tập đang cố gắng giúp công dân Trung Hoa chấp nhận được ý tưởng về những thời điểm khó khăn hơn phía trước và bảo đảm rằng đảng và bản thân ông được coi là lực lượng ổn định.

 

Tập đã đặt Trung Hoa vào một quỹ đạo đầy rủi ro, một quỹ đạo đe dọa những thành tựu mà những người tiền nhiệm của ông đã đạt được.

 

Trong khi đó, để khai thác cơ hội họ nghĩ trong thời gian Mỹ rút lui khỏi các vấn đề toàn cầu, Bắc Kinh đã tấn công mạnh mẽ trên nhiều mặt trận chính sách đối ngoại. Chiến dịch này gồm việc sử dụng các chiến thuật “vùng xám”, chẳng hạn như dùng tàu đánh cá thương mại để khẳng định lợi ích lãnh thổ ở Biển Đông và thiết lập căn cứ quân sự ở nước ngoài đầu tiên của Trung Hoa, ở Djibouti. Thị trường nội địa rộng lớn của Trung Hoa đã cho phép Tập đe dọa các quốc gia không thể hiện sự tuân theo chính trị và ngoại giao, bằng chứng là chiến dịch cưỡng bức kinh tế gần đây của Bắc Kinh đối với Australia để đáp lại lời kêu gọi của Canberra về một cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của virus gây ra COVID-19. Tương tự, Tập đã khuyến khích các nhà ngoại giao “Chiến Lang” của Trung Hoa đe dọa và quấy rối các nước chủ nhà chỉ trích hoặc chống đối Trung Hoa. Đầu năm nay, Bắc Kinh đã áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Jo Smith Finley, một chuyên gia nhân chủng học và nhà khoa học chính trị người Anh nghiên cứu về Tân Cương, và Viện Nghiên cứu Trung Hoa Mercator, một tổ chức tư vấn của Đức, những người làm những việc mà ĐCSTH tuyên bố đã “gây tổn hại nghiêm trọng [đến] chủ quyền và lợi ích của Trung Hoa.”

 

Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đã thể hiện sự kiên nhẫn chiến lược trong việc khẳng định lợi ích của Trung Hoa trên trường thế giới. Thật vậy, Mao đã nói với Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon rằng Trung Hoa có thể đợi 100 năm để giành lại Đài Loan, và Đặng đã thương lượng việc trả lại Hong Kong theo lời hứa (nhưng đã bị Tập phá vỡ) về thời kỳ tự trị địa phương kéo dài 50 năm. Cả hai nhà lãnh đạo đều có ý thức sâu sắc về sự mong manh tương đối của Trung Hoa và tầm quan trọng của thái độ thận trọng, sắc thái của tài lãnh đạo quốc gia. Tập không chia sẻ sự bình tĩnh, hoặc sự tin tưởng của họ vào các giải pháp lâu dài.

 

Việc đó đã làm dấy lên lo ngại rằng Tập sẽ cố gắng thực hiện một trò chơi cực kỳ mạo hiểm để chiếm Đài Loan bằng vũ lực vào năm 2027, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Giải phóng quân. Tuy nhiên, việc Tập có thể khiêu khích mở cuộc xung đột quân sự  với Mỹ chỉ cách bờ biển Trung Hoa 110 dặm là việc đáng ngờ. Giả sử PLA đã thành công trong việc vượt qua hàng phòng thủ của Đài Loan, không nói gì đến việc vượt qua khả năng can dự của Hoa Kỳ, thì Tập sẽ phải thực hiện một cuộc chiếm đóng quân sự chống lại sự kháng cự bền vững trong một khoảng thời gian không xác định. Một nỗ lực tiếp quản Đài Loan sẽ làm suy yếu gần như tất cả các tham vọng toàn cầu và ở các nước khác của Tập. Tuy nhiên, mặc dù các kịch bản cực đoan hơn có thể vẫn chưa xảy ra trong thời điểm hiện tại, Tập sẽ tiếp tục để Trung Hoa phô trương sức mạnh trong khu vực lân cận và đẩy mạnh ra bên ngoài để theo đuổi lợi ích của mình. Về nhiều vấn đề, ông ấy dường như muốn giải quyết cuối cùng dưới thời ông lãnh đạo.

 

NGƯỜI CỦA HỆ THỐNG

 

Tập có khuynh hướng của tin rằng ông có thể định hình đường đi chính xác của quỹ đạo của Trung Hoa khiến người ta nhớ đến việc kinh tế gia Adam Smith đã mô tả về một “con người của hệ thống” là một nhân vật lãnh đạo “say mê vẻ đẹp được cho là của kế hoạch chính phủ lý tưởng của riêng mình, đến nỗi ông ta không thể chịu đựng được độ lệch nhỏ nhất so với bất kỳ phần nào của nó.” Để thực hiện các mục tiêu ngắn hạn của mình, Tập đã từ bỏ bàn tay vô hình của thị trường và xây dựng một hệ thống kinh tế dựa vào các chủ thể nhà nước để đạt được các mục tiêu đã định trước.

 

Điều quan trọng đối với sự thay đổi này là sự phụ thuộc của Tập vào chính sách kỹ nghệ, một công cụ của quy chế kinh tế đã không còn được ưa chuộng cho đến gần cuối nhiệm kỳ của Hồ Cẩm Đào, người tiền nhiệm của Tập, khi nó bắt đầu định hình cách đối phó của Bắc Kinh đối với đổi mới kỹ thuật. Năm 2015 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, với sự ra đời của các chương trình chính sách kỹ nghệ thay thế nhằm mục đích không chỉ thúc đẩy một kỹ thuật hoặc ngành kỹ nghệ nhất định mà còn tái tạo lại toàn bộ cấu trúc của nền kinh tế. Chương trình đó gồm kế hoạch Sản xuất tại Trung Hoa 2025, nhằm nâng cấp năng lực sản xuất của Trung Hoa trong một số lĩnh vực quan trọng; chiến lược Internet Plus, một kế hoạch tích hợp kỹ thuật thông tin vào các ngành kỹ nghệ truyền thống hơn; và Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, trong đó vạch ra một chương trình nghị sự đầy tham vọng nhằm giảm sự phụ thuộc của Trung Hoa vào kỹ thuật nước ngoài. Bằng những chính sách như vậy, Bắc Kinh chuyển hàng chục nghìn tỷ nhân dân tệ vào các công ty, kỹ thuật và lĩnh vực mà họ coi là quan trọng về mặt chiến lược. Chính phủ Hoa lục thực hiện điều này bằng cách trợ cấp trực tiếp, giảm thuế và “quỹ hướng dẫn của chính phủ” gần như thị trường, giống như các công ty đầu tư mạo hiểm do nhà nước kiểm soát.

 

Cho đến nay, thành tích của Bắc Kinh trong khu vực này được kết hợp một cách quyết định: trong nhiều trường hợp, những khoản đầu tư khổng lồ đã tạo ra lợi nhuận rất nhỏ. Nhưng như kinh tế gia Barry Naughton đã lên tiếng cảnh giác,

 

“Những chính sách kỹ nghệ của Trung Hoa quá lớn và quá mới, nên chúng tôi chưa có đủ tư cách để đánh giá chúng. Họ có thể thành công, nhưng cũng có thể biến thành thảm họa.” Barry Naughton

 

Tập tin rằng ông có thể tạo dựng tương lai của Trung Hoa cũng như các hoàng đế trong quá khứ xa với của Hoa lục.

 

Liên quan đến chính sách kỹ nghệ này là cách nhìn của Tập đối với các công ty thuộc khu vực tư nhân của Trung Hoa, gồm nhiều công ty khổng lồ về kỹ thuật và tài chính mà chỉ vài năm trước đây giới quan sát coi là tác nhân có thể gây ra thay đổi chính trị và xã hội. Đổi mới kỹ thuật giúp các công ty như Ant Group và Tencent kiểm soát được các luồng dữ liệu mới và kỹ thuật tài chính quan trọng. Tập rõ ràng nhận thấy đây là một mối đe dọa không thể chấp nhận được, thể hiện qua việc ĐCSTH gần đây đã tăng đột biến đợt chào bán công khai lần đầu của Ant Group sau những bình luận của người sáng lập Jack Ma, mà nhiều người coi là chỉ trích đảng.

 

Tập sẵn sàng từ bỏ việc nâng cao uy tín tài chính quốc tế của Trung Hoa để bảo vệ lợi ích của đảng và gửi tín hiệu đến giới tinh hoa kinh doanh: đảng trước. Tuy nhiên, đây không phải là câu chuyện của David và Goliath. Nó giống như những mâu thuẫn trong gia đình hơn, do mối liên hệ chặt chẽ và lâu dài giữa các công ty tư nhân trên danh nghĩa của Trung Hoa và hệ thống chính trị của nó. Thật vậy, gần như tất cả các doanh nhân thành công nhất của Trung Hoa đều là đảng viên của ĐCSTH và đối với nhiều công ty, thành công phụ thuộc vào sự ưu đãi của đảng, gồm cả sự bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài. Nhưng trong khi các nhà lãnh đạo trước đây của Trung Hoa đã để một phạm vi hoạt động thư thả cho khu vực tư nhân, Tập đã buộc phải vạch ra một đường ranh giới. Làm như vậy đã hạn chế hơn nữa khả năng đổi mới của quốc gia. Cho dù các cơ quan quản lý và nhà đầu tư nhà nước của Bắc Kinh có tinh vi đến đâu, thì sự đổi mới bền vững và tăng năng suất không thể xảy ra nếu không có khu vực tư nhân sôi động.

 

CHIẾN LƯỢC LỚN HAY THƯƠNG HIỆU LỚN?

 

Để nắm bắt những lợi thế tạm thời và ngăn chặn những thách thức trong nước, Tập đã định vị mình cho một cuộc chạy đua kéo dài 15 năm, một cuộc đua mà ông đã huy động những khả năng tuyệt vời của một hệ thống mà ông đang chỉ huy không bị thách thức. Khung thời gian bị cắt ngắn của Tập mang lại cảm giác cấp bách sẽ xác định chương trình nghị sự chính sách, khả năng chấp nhận rủi ro và sẵn sàng thỏa hiệp của Bắc Kinh khi nước này đang tiến về phía trước. Điều này sẽ thu hẹp các lựa chọn có sẵn cho các quốc gia hy vọng định hình ứng xử của Trung Hoa hoặc hy vọng rằng thái độ của “Chiến Lang” sẽ tự nhiên thoái lui.

 

Hoa Kỳ có thể bác bỏ quan điểm của Bắc Kinh rằng nền dân chủ của họ đã suy yếu và ngôi sao của Washington đang mờ nhạt bằng cách tăng cường khả năng phục hồi của xã hội Hoa Kỳ và nâng cao khả năng của chính phủ Hoa Kỳ. Nếu Hoa Kỳ và các đồng minh đầu tư vào đổi mới và nguồn nhân lực, họ có thể cản trở những nỗ lực của Tập nhằm đạt được lợi thế đi đầu trong các kỹ thuật quan trọng và mới nổi. Tương tự như vậy, vai trò tích cực hơn và hướng tới tương lai của Hoa Kỳ trong việc định hình trật tự toàn cầu sẽ hạn chế khả năng của Bắc Kinh trong việc truyền bá những ý tưởng phi đạo đức ra ngoài biên giới của Trung Hoa.

 

Vô tình, Tập đã đặt Trung Hoa vào cuộc cạnh tranh với chính mình, trong một cuộc chạy đua để xác định xem liệu nhiều điểm mạnh của nước này có thể vượt xa những bệnh lý mà chính Tập đã đưa vào hệ thống hay không. Vào thời điểm ông nắm quyền, ĐCSTH đã thiết lập một quy trình khá dễ đoán trước cho tiến trình chuyển giao quyền lực thường xuyên và hòa bình. Vào mùa thu tới, Đại hội Đảng lần thứ 20 sẽ được tổ chức, và thông thường, một nhân vật lãnh đạo từng nắm quyền như Tập sẽ đứng sang một bên. Tuy nhiên, cho đến nay, không có kỳ vọng rằng Tập sẽ làm như vậy. Đây là một hành động cực kỳ mạo hiểm, không chỉ đối với chính ĐCSTH mà còn đối với tương lai của Trung Hoa. Không có người kế vị trong tầm mắt, nếu Tập đột ngột qua đời trong thập kỷ tới, đất nước có thể rơi vào hỗn loạn.

 

Ngay cả khi giả định rằng Tập vẫn khỏe mạnh khi nắm quyền, thì nhiệm kỳ của ông ấy càng kéo dài, ĐCSTH sẽ càng giống với một sự sùng bái cá nhân, giống như dưới thời Mao. Các yếu tố của điều này đã quá rõ ràng, với thói nịnh hót, thấy rõ ở mọi tầng lớp chính trị của Trung Hoa hiện là chuẩn mực. Những ý nghĩa về sự vĩ đại của “Tư tưởng Tập Cận Bình” có thể khiến người ngoài chỉ tò mò hoặc ngay cả coi là hài hước, nhưng chúng thực sự có ảnh hưởng nghiêm trọng đến phẩm chất của những quyết định và luồng thông tin trong đảng.

 

Thật là mỉa mai và bi thảm, nếu Tập, một nhân vật lãnh đạo với sứ mệnh cứu đảng và cứu nước, lại đẩy cả hai vào tình trạng hiểm nghèo. Đường lối hiện tại của Tậo có nguy cơ làm mất tác dụng của những tiến bộ lớn mà Trung Hoa đã đạt được trong bốn thập kỷ qua. Cuối cùng, Tập có thể đúng rằng mười năm tới tới sẽ quyết định thành công lâu dài của Trung Hoa. Điều mà ông ta có thể không hiểu là chính ông ta có thể là trở ngại lớn nhất.

 

https://csis-website-prod.s3.amazonaws.com/s3fs-public/styles/csis_portrait/public/contributor/190809_5Blanchette.jpg?itok=iv7g7dKS

Tác giả | Jude Blanchette là Học giả Freeman về Nghiên cứu Trung Hoa tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.

 

© 2021 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


 

Nguồn:  

Jude Blanchette, “Xi’s Gamble: The Race to Consolidate Power and Stave Off Disaster,” Foreign Affairs (July/August 2021).

 

 

 

 

No comments:

Post a Comment

View My Stats