Nguồn
gốc COVID : Ai đã mở chiếc hộp Pandora (*) ở Vũ Hán : con người hay thiên nhiên? (Kỳ 2)
Nicholas
Wade, Bulletin
of the Atomic Scientists ngày 5 tháng Năm, 2021
Hiếu Tân dịch
Posted on 16/05/2021 by Boxit VN
So sánh các kịch bản
đối địch về nguồn gốc SARS2.
Bằng chứng ở trên bổ sung thêm một trường hợp
nghiêm trọng rằng virus SARS2 có thể đã được tạo ra trong phòng thí nghiệm, sau
đó nó đã thoát ra ngoài. Nhưng trường hợp này, dù có thực chất đến mấy,
đang thiếu bằng chứng. Bằng chứng sẽ bao gồm các chứng cứ từ Viện Virus Vũ
Hán, hoặc các phòng thí nghiệm liên quan ở Vũ Hán, rằng SARS2 hoặc một loại
vi-rút tiền thân đang phát triển ở đó. Vì thiếu quyền truy cập vào các hồ sơ
như vậy, một cách tiếp cận khác là xem xét các sự kiện nổi bật nhất định về vi
rút SARS2 và hỏi xem mỗi sự kiện được giải thích như thế nào bởi hai kịch bản
đối địch về nguồn gốc, đó là xuất-hiện-tự-nhiên và thoát-ra-từ-phòng-thí-nghiệm.
Dưới đây là bốn thử nghiệm của hai giả thuyết. Có một vài chi tiết kỹ thuật,
nhưng đây là một trong những điều thuyết phục nhất đối với những người có thể
quan tâm theo dõi lập luận.
1) Nơi xuất xứ. Bắt đầu với địa lý. Hai họ hàng gần nhất được biết đến của virus SARS2
được thu thập từ những con dơi sống trong hang động ở Vân Nam, một tỉnh miền
nam Trung Quốc. Nếu vi rút SARS2 lần đầu tiên lây nhiễm cho những người sống
xung quanh các hang động ở Vân Nam, điều đó sẽ ủng hộ mạnh mẽ ý kiến cho rằng virus đã lây sang người một cách tự
nhiên. Nhưng đây không phải là điều đã xảy ra. Đại dịch bùng phát cách đó
1.500 km, ở Vũ Hán.
Beta-coronavirus, họ virus dơi mà SARS2 thuộc
về, lây nhiễm cho dơi móng ngựa Rhinolophus affinis, sống ở khắp miền
nam Trung Quốc. Phạm vi hoạt động của những con dơi là 50 km, vì vậy không có
khả năng có con nào đến được Vũ Hán. Trong mọi trường hợp, những ca đầu tiên của
đại dịch COVID-19 có thể xảy ra vào tháng 9, khi nhiệt độ ở tỉnh Hồ Bắc đã đủ lạnh
để đưa dơi vào trạng thái ngủ đông.
Điều gì sẽ xảy ra nếu virus dơi lây nhiễm cho
một số vật chủ trung gian trước? Bạn sẽ cần một quần thể dơi lâu đời thường
xuyên ở gần vật chủ trung gian, những vật này đến lượt chúng lại thường
xuyên va chạm với người. Tất cả những sự trao đổi virus này phải diễn ra ở đâu
đó bên ngoài Vũ Hán, một đô thị sầm uất mà cho đến nay vẫn được biết đến không
phải là môi trường sống tự nhiên của các đàn dơi Rhinolophus. Người bị
nhiễm (hoặc động vật) mang virus có khả năng lây truyền cao này hẳn đã đến Vũ
Hán mà không lây nhiễm cho bất kỳ ai khác. Không ai trong gia đình anh ấy hoặc
cô ấy bị bệnh. Nếu người đó nhảy lên một chuyến tàu đến Vũ Hán, thì không có
hành khách nào bị ốm.
Nói cách khác, đó là một chặng đường dài để đại
dịch bùng phát tự nhiên bên ngoài Vũ Hán và sau đó, xuất hiện lần đầu tiên ở Vũ
Hán mà không để lại bất kỳ dấu vết nào.
Đối với kịch bản thoát ra từ phòng thí nghiệm,
nguồn gốc từ Vũ Hán cho virus là điều không cần bàn cãi. Vũ Hán là nơi có trung
tâm nghiên cứu coronavirus hàng đầu của Trung Quốc, như đã nói ở trên, các nhà
nghiên cứu đã xử lý gen những con coronavirus dơi để tấn công tế bào người.
Họ đã làm như vậy trong các điều kiện an toàn tối thiểu của phòng thí nghiệm
BSL2. Nếu một loại virus có tính lây nhiễm không ngờ của SARS2 đã được tạo ra
ở đó, thì việc đào thoát của nó sẽ không có gì ngạc nhiên.
2) Lịch sử tự nhiên và tiến hóa. Vị trí ban đầu của đại dịch là một phần nhỏ của một vấn đề lớn hơn, đó
là lịch sử tự nhiên của nó. Virus không chỉ thực hiện một lần nhảy từ loài này
sang loài khác. Protein đột biến của coronavirus, thích nghi để tấn công các tế
bào dơi, cần phải nhảy nhiều lần sang loài khác, hầu hết chúng đều thất bại,
trước khi đạt được đột biến may mắn. Đột biến – sự thay đổi ở một trong các
đơn vị RNA của nó – khiến một đơn vị axit amin khác được kết hợp vào protein đột
biến của nó và làm cho protein đột biến có thể tấn công tế bào của một số loài
khác tốt hơn.
Thông qua một số điều chỉnh do đột biến khích
động như vậy, virus thích nghi với vật chủ mới của nó, chẳng hạn như một số
loài động vật mà dơi thường xuyên tiếp xúc. Sau đó, toàn bộ quá trình tiếp tục
khi virus di chuyển từ vật chủ trung gian này sang người.
Trong trường hợp của SARS1, các nhà nghiên cứu
đã ghi nhận những thay đổi liên tiếp trong protein đột biến của nó khi virus tiến
hóa từng bước thành một mầm bệnh nguy hiểm. Sau khi nhảy từ dơi sang cầy
hương, có thêm sáu lần thay đổi nữa trong protein đột biến của nó trước khi nó
trở thành một mầm bệnh nhẹ ở người. Sau 14 lần thay đổi nữa, virus đã thích
nghi tốt hơn với con người, và với 4 lần thay đổi tiếp theo, dịch bệnh đã bùng
phát.
Nhưng khi bạn tìm kiếm dấu hiệu của một quá
trình chuyển đổi tương tự trong SARS2, một bất ngờ kỳ lạ đang chờ đợi. Virus hầu
như không thay đổi, ít nhất là cho đến gần đây. Ngay từ lần xuất hiện đầu tiên,
nó đã thích nghi tốt với các tế bào của con người. Các nhà nghiên cứu do Alina
Chan thuộc Broad Institude dẫn đầu đã so sánh SARS2 với SARS1 giai đoạn cuối,
khi đó nó đã thích nghi tốt với tế bào người và nhận thấy rằng hai loại virus
này đều thích nghi tốt như nhau. Họ viết: “Vào thời điểm SARS-CoV-2 được phát
hiện lần đầu tiên vào cuối năm 2019, nó đã được điều chỉnh trước để thích hợp
với việc lây truyền sang người ở mức độ tương tự như dịch SARS-CoV giai đoạn
cuối”.
Ngay cả những người nghĩ rằng (kịch bản) nguồn
gốc trong phòng thí nghiệm khó xảy ra cũng đồng ý rằng các bộ gen của SARS2
là đồng nhất rõ rệt. Baric viết rằng “các chủng ban đầu được xác định ở Vũ
Hán, Trung Quốc, cho thấy sự đa dạng di truyền hạn chế, điều này gợi ý rằng
virus có thể đã được đưa vào từ một nguồn duy nhất.”
Tất nhiên, một nguồn duy nhất sẽ tương thích với
khả năng thoát ra từ phòng thí nghiệm, ít thích hợp hơn với lựa chọn tự
nhiên và biến đổi quy mô lớn, vốn là cách hoạt động đặc biệt của tiến
hóa.
Cấu trúc đồng nhất của bộ gen SARS2 không cho
thấy dấu hiệu nào về việc di chuyển qua vật chủ động vật trung gian và không có
vật chủ nào như vậy được xác định trong tự nhiên.
Những người ủng hộ giả thuyết xuất hiện tự nhiên
cho rằng SARS2 đã ấp ủ trong một quần thể người chưa-được-tìm-thấy trước khi có
được những đặc tính đặc biệt của nó. Hoặc nó đã nhảy sang một con vật chủ bên
ngoài Trung Quốc.
Tất cả những phỏng đoán này đều là khả thể,
nhưng gượng gạo. Những người đề xuất (giả thuyết về) một vụ rò rỉ trong
phòng thí nghiệm có một lời giải thích đơn giản hơn. SARS2 đã được điều chỉnh để
phù hợp với tế bào người ngay từ đầu vì nó đã được phát triển trên chuột nhân
hóa hoặc tế bào người nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, đúng như mô tả trong
giấy đề nghị tài trợ của Daszak. Bộ gen của nó cho thấy ít sự đa dạng vì dấu
hiệu nhận biết của các mẫu nuôi cấy trong phòng thí nghiệm là tính đồng nhất.
Những người ủng hộ giả thuyết thoát từ
phòng thí nghiệm nói đùa rằng tất nhiên virus SARS2 đã lây nhiễm sang một loài
vật chủ trung gian trước khi lây lan sang người và họ đã xác định được nó – một
con chuột được nhân hóa từ Viện Vi rút học Vũ Hán.
3) Vị trí phân cắt furin. Vị trí phân cắt
furin là một phần nhỏ trong cấu trúc giải phẫu của virus nhưng lại có ảnh hưởng
lớn đến khả năng lây nhiễm của nó. Nó nằm ở giữa protein đột biến SARS2. Nó
cũng nằm ở trung tâm của câu đố về nguồn gốc của virus.
Protein đột biến có hai đơn vị con với các vai
trò khác nhau. Cái đầu tiên, được gọi là S1, nhận ra mục tiêu của virus, một
loại protein được gọi là enzym chuyển đổi angiotensin-2 (hoặc ACE2) bám trên bề
mặt của các tế bào trên đường thở của con người. Cái thứ hai, S2, giúp virus,
một khi đã được neo vào tế bào, hợp nhất với màng tế bào. Sau khi màng ngoài của
virus dính với màng của tế bào bị tấn công, bộ gen của virus được tiêm vào tế
bào, chiếm quyền điều khiển bộ máy tạo protein của nó và buộc nó tạo ra những
virus mới.
Nhưng cuộc xâm lược này không thể bắt đầu cho
đến khi các đơn vị con S1 và S2 bị cắt rời. Và ở đó, ngay tại điểm tiếp giáp
S1 / S2, là vị trí phân cắt furin đảm bảo protein đột biến sẽ được phân cắt
chính xác ở đúng vị trí thích hợp.
Con virus này, một mô hình thiết kế kinh tế,
không mang dụng cụ cắt riêng của nó. Nó dựa vào tế bào để thực hiện phân cắt
cho nó. Các tế bào người có một công cụ cắt protein trên bề mặt của chúng được
gọi là furin. Furin sẽ cắt bất kỳ chuỗi protein nào mang dấu hiệu vị trí cắt
mục tiêu của nó. Đây là chuỗi các đơn vị axit amin
proline-arginine-arginine-alanine, hoặc PRRA trong mã nhắc đến mỗi axit amin bằng
một chữ cái trong bảng chữ cái. PRRA là chuỗi axit amin ở lõi của vị trí phân
cắt furin của SARS2.
Các virus có đủ loại mánh khóe thông minh, vậy
tại sao vị trí phân cắt furin lại nhô ra như vậy? Bởi vì trong số tất cả các
beta-coronavirus liên quan đến SARS đã biết, chỉ có SARS2 sở hữu một vị trí
phân cắt furin. Tất cả các loại virus khác có đơn vị S2 của chúng bị phân cắt tại
một vị trí khác và theo một cơ chế khác.
Vậy SARS2 có được vị trí phân cắt furin của
nó như thế nào? Hoặc là vị trí đó tiến hóa một cách tự nhiên hoặc được
các nhà nghiên cứu chèn vào tại điểm tiếp giáp S1 / S2 trong một thí nghiệm
tăng chức năng.
Trước hết hãy xem xét nguồn gốc tự nhiên. Hai
cách virus tiến hóa là đột biến và tái tổ hợp. Đột biến là quá trình thay đổi
ngẫu nhiên DNA (hoặc RNA đối với các coronavirus) thường dẫn đến việc một axit
amin trong chuỗi protein được chuyển sang một axit amin khác. Nhiều thay đổi
trong số này gây hại cho virus nhưng chọn lọc tự nhiên giữ lại một số ít thay đổi
có ích. Đột biến là quá trình mà protein đột biến SARS1 dần dần chuyển các tế
bào mục tiêu ưa thích của nó từ dơi sang cầy hương, và sau đó sang người.
Dường như ít có khả năng SARS2 tạo ra vị trí
phân cắt furin của nó bằng cách đột biến, mặc dù không thể loại trừ hoàn
toàn khả năng này. Bốn đơn vị axit amin của vị trí đều ở cùng nhau và tất cả đều
ở đúng vị trí tiếp giáp S1 / S2. Đột biến là một quá trình ngẫu nhiên được
kích hoạt bởi lỗi sao chép (khi các bộ gen virus mới đang được tạo ra) hoặc do
sự phân rã hóa học của các đơn vị gen. Vì vậy, nó thường ảnh hưởng đến các axit
amin đơn lẻ tại các điểm khác nhau trong một chuỗi protein. Còn dễ hơn
nhiều để đạt được toàn bộ chuỗi các axit amin như chuỗi của vị trí phân
cắt furin, nếu thông qua một quá trình hoàn toàn khác được gọi là tái tổ hợp.
Tái tổ hợp là sự hoán đổi vật chất di truyền một
cách vô tình xảy ra khi hai virus tình cờ xâm nhập vào cùng một tế bào, và thế
hệ con cháu của chúng được lắp ráp bằng các đoạn ARN thuộc về virus kia. Các
beta-coronavirus sẽ chỉ kết hợp với những beta-coronavirus khác nhưng, bằng
cách tái tổ hợp, có thể có được hầu như bất kỳ yếu tố di truyền nào có trong
nhóm gen tập thể. Cáì mà chúng không thể có được là một yếu tố mà nhóm gien
kia không có. Và không có virus beta-coronavirus liên quan đến SARS đã biết
nào, lớp mà SARS2 thuộc về, sở hữu một vị trí phân cắt furin.
Những người đề xuất giả thuyết xuất hiện tự
nhiên nói rằng SARS2 có thể đã lấy vị trí ấy từ một số loại virus
beta-coronavirus chưa được biết đến. Nhưng các beta-coronavirus liên quan đến
SARS ở dơi rõ ràng không cần vị trí phân cắt furin để nhiễm vào các tế bào dơi,
vì vậy điều không dễ xảy ra là có bất kỳ beta-coronavirus nào trên thực tế
sở hữu một (vị trí phân cắt furin) và thực tế cho đến nay chưa tìm thấy trường
hợp nào như thế.
Lập luận tiếp theo của những người đề xuất, là
SARS2 có được vị trí phân cắt furin của nó từ người. Tiền thân của SARS2
có thể đã và đang lưu hành trong quần thể người trong nhiều tháng hoặc nhiều
năm cho đến một lúc nào đó nó có được vị trí phân cắt furin từ tế bào người.
Khi đó nó đã sẵn sàng bùng phát như một đại dịch.
Nếu đây là điều đã xảy ra, thì phải có dấu
vết trong hồ sơ giám sát bệnh viện của những người bị nhiễm virus tiến triển
chậm. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có điều gì được đưa ra ánh sáng. Theo báo cáo
của WHO về nguồn gốc của virus, các bệnh viện trọng điểm ở tỉnh Hồ Bắc, mà Vũ
Hán là thủ phủ, thường xuyên theo dõi các ca bệnh giống cúm và “không có bằng
chứng cho thấy sự lây truyền đáng kể SARSCoV-2 trong những tháng trước khi bùng
phát vào tháng 12…”
Vì vậy, thật khó mà giải thích làm thế nào
vi rút SARS2 có được vị trí phân cắt furin của nó một cách tự nhiên, cho dù
là do đột biến hay tái tổ hợp.
Còn lại một thí nghiệm tăng chức năng. Đối với
những người nghĩ rằng SARS2 có thể đã thoát ra từ một phòng thí nghiệm, việc
giải thích vị trí phân cắt furin không có vấn đề gì cả. Steven Quay, một nhà
kinh doanh công nghệ sinh học quan tâm đến nguồn gốc của SARS2 viết: “Kể từ năm
1992, cộng đồng virus học đã biết rằng cách chắc chắn để làm cho virus nguy
hiểm hơn là cung cấp cho nó một vị trí phân cắt furin tại tiếp giáp S1/S2
trong phòng thí nghiệm. “Ít nhất 11 thí nghiệm tăng chức năng, thêm một vị
trí furin để làm cho vi-rút dễ lây nhiễm hơn, đã được công bố trên các tài liệu
công khai, kể cả [của] Tiến sĩ Zhengli Shi, người lãnh đạo nghiên cứu về
coronavirus tại Viện Virus học Vũ Hán.”
4) Một câu hỏi về codon. Có một khía cạnh
khác của vị trí phân cắt furin thu hẹp hơn nữa con đường biện hộ cho nguồn
gốc xuất hiện tự nhiên.
Như mọi người đều biết (hoặc ít nhất có thể nhớ
lại từ thời trung học), mã di truyền sử dụng ba đơn vị DNA để chỉ định mỗi đơn
vị axit amin của một chuỗi protein. Khi được đọc theo nhóm 3, 4 loại DNA khác
nhau có thể chỉ định 4 x 4 x 4 hoặc 64 bộ ba khác nhau, hoặc codon như người
ta thường gọi. Vì chỉ có 20 loại axit amin, nên có quá đủ các codon xung
quanh, cho phép một số axit amin được chỉ định bởi nhiều hơn một codon. Ví dụ,
axit amin arginine có thể được chỉ định bởi bất kỳ mã nào trong số sáu codon
CGU, CGC, CGA, CGG, AGA hoặc AGG, trong đó A, U, G và C là ký hiệu của bốn
loại đơn vị khác nhau trong RNA.
Ở chỗ này câu chuyện trở nên thú vị. Các
sinh vật khác nhau có sở thích codon khác nhau. Tế bào người thích chỉ định
arginine với các codon CGT, CGC hoặc CGG. Nhưng CGG là codon ít phổ biến nhất của
coronavirus cho arginine. Hãy ghi nhớ điều đó khi xem xét các axit amin trong vị
trí phân cắt furin được mã hóa trong bộ gen SARS2 như thế nào.
Bây giờ, lý do chính thức tại sao SARS2 có vị
trí phân cắt furin, còn các vi rút anh em của nó thì không, có thể được nhìn
thấy bằng cách xếp (trong máy tính) chuỗi gần 30.000 nucleotide trong bộ gen của
nó với chuỗi của các coronavirus họ hàng của nó, trong đó gần nhất được biết đến
cho đến nay là một cái tên là RaTG13. So với RaTG13, SARS2 có 12 nucleotide
chèn ngay tại điểm nối S1/S2. Phần chèn là trình tự T-CCT-CGG-CGG-GC. CCT mã
cho proline, hai CGG cho hai arginine và GC là phần đầu của codon GCA mã cho
alanine.
Có một số tính năng gây tò mò về phần chèn này
nhưng kỳ lạ nhất là hai codon CGG cạnh nhau. Chỉ 5 phần trăm codon arginine của
SARS2 là CGG và codon kép CGG-CGG không được tìm thấy trong bất kỳ loại virus
beta-coronavirus nào khác. Vậy làm thế nào mà SARS2 có được một cặp codon
arginine được các tế bào của con người ưa chuộng chứ không phải của
coronavirus?
Những người đề xướng sự xuất hiện tự nhiên
có nhiệm vụ nhọc nhằn là giải thích tất cả các đặc điểm của vị trí phân cắt
furin của SARS2. Họ phải giả định một sự kiện tái tổ hợp tại một vị trí trên bộ
gen của virus, nơi mà sự tái tổ hợp rất hiếm và việc chèn một chuỗi 12
nucleotide với một codon arginine kép chưa được biết trong kho
beta-coronavirus, tại vị trí duy nhất trong bộ gen sẽ mở rộng đáng kể khả năng
lây nhiễm của vi rút.
“Đúng, nhưng cách diễn đạt của bạn khiến điều
này nghe có vẻ khó xảy ra – virus là chuyên gia trong các sự kiện bất thường,”
là lời giải thích của David L. Robertson, một nhà virus học tại Đại học
Glasgow, người coi (giả thuyết) thoát ra từ phòng thí nghiệm là một thuyết
âm mưu. “Sự tái tổ hợp diễn ra tự nhiên rất thường xuyên ở những virus này, có
những điểm gián đoạn tái tổ hợp trong protein đột biến và những codon này có
vẻ không bình thường chính xác là do chúng tôi chưa lấy mẫu đủ.”
Robertson đã nói đúng rằng tiến hóa luôn tạo
ra những kết quả có vẻ khó xảy ra nhưng thực tế thì không. Virus có thể tạo ra
vô số biến thể nhưng chúng ta chỉ thấy một phần tỷ mà chọn lọc tự nhiên chọn
cho tồn tại. Nhưng lập luận này có thể bị đẩy đi quá xa. Chẳng hạn, bất kỳ kết
quả nào của một thí nghiệm tăng chức năng đều có thể được giải thích là kết quả
mà tiến hóa đã đạt đến đúng lúc của nó. Và trò chơi số có thể được chơi
theo cách khác. Để vị trí phân cắt furin phát sinh tự nhiên trong SARS2, một
chuỗi các sự kiện phải xảy ra, mỗi sự kiện đều vô cùng khó xảy ra vì những lý
do đã nêu ở trên. Một chuỗi dài với nhiều bước không chắc chắn sẽ khó có thể
được hoàn thành.
Đối với kịch bản thoát ra từ phòng thí nghiệm,
codon CGG kép không có gì ngạc nhiên. Bộ mã hóa ưa thích của (tế bào) người
thường được sử dụng trong các phòng thí nghiệm. Vì vậy, bất kỳ ai muốn chèn vị
trí phân cắt furin vào bộ gen của virus sẽ tổng hợp chuỗi tạo PRRA trong phòng
thí nghiệm và hoàn toàn có thể sử dụng các codon CGG để làm như vậy.
David Baltimore, một nhà virus học nổi tiếng
và là cựu chủ tịch của CalTech nói: “Khi tôi lần đầu tiên nhìn thấy vị trí
phân cắt furin trong chuỗi virus, với các codon arginine của nó, tôi đã nói với
vợ tôi rằng đó chính là phát súng kết thúc cho nguồn gốc của virus,” Ông
nói: “Những đặc điểm này tạo ra một thách thức lớn đối với ý tưởng về nguồn gốc
tự nhiên của SARS2.” [1]
Một kịch bản thứ
ba về nguồn gốc.
Có một biến thể trong kịch bản xuất hiện tự
nhiên đáng được xem xét. Đây là ý tưởng cho rằng SARS2 đã nhảy trực tiếp từ dơi
sang người mà không cần qua vật chủ trung gian như SARS1 và MERS đã làm. Một
người ủng hộ hàng đầu là nhà virus học David Robertson, người lưu ý rằng SARS2
có thể tấn công một số loài khác ngoài con người. Ông tin rằng virus đã phát
triển một khả năng tổng quát khi vẫn còn ở trong cơ thể loài dơi. Vì những con
dơi mà nó nhiễm phân bố rộng rãi ở miền nam và miền trung Trung Quốc, nên virus
có rất nhiều cơ hội để nhảy sang người, mặc dù nó dường như chỉ xảy ra vào một
lần duy nhất đã biết. Luận cứ của Robertson giải thích tại sao cho đến nay
không ai tìm thấy dấu vết của SARS2 trong bất kỳ vật chủ trung gian nào hoặc
trong các quần thể người được khảo sát trước tháng 12 năm 2019. Nó cũng giải
thích một thực tế khó hiểu là SARS2 không thay đổi kể từ khi nó xuất hiện lần đầu
ở người – nó đã không cần phải như vậy vì nó đã có thể tấn công các tế bào của
con người một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, có một vấn đề với ý tưởng này là,
nếu SARS2 nhảy từ dơi sang người chỉ trong một bước nhảy và không thay đổi nhiều
kể từ đó, thì nó vẫn có khả năng nhiễm tốt cho dơi. Và có vẻ như không phải vậy.
Một nhóm nhà khoa học hoài nghi về sự xuất hiện
tự nhiên viết: “Các loài dơi được thử nghiệm có khả năng lây nhiễm thấp bởi
SARS-CoV-2 và do đó chúng không có khả năng trở thành nguồn lây nhiễm trực tiếp
cho người.
Tuy nhiên, Robertson có thể đưa thêm một điều
gì đó. Các coronavirus dơi trong các hang động ở Vân Nam có thể lây nhiễm trực
tiếp cho người. Vào tháng 4 năm 2012, sáu thợ mỏ dọn phân dơi từ mỏ Mojiang đã
mắc bệnh viêm phổi nặng với các triệu chứng giống COVID-19 và cuối cùng ba người
đã chết. Một loại virus được tách ra từ mỏ Mojiang, được gọi là RaTG13, vẫn là
họ hàng gần nhất được biết đến của SARS2. Nhiều bí ẩn xoay quanh nguồn gốc, báo
cáo và ái lực thấp kỳ lạ của RaTG13 đối với tế bào dơi, cũng như bản chất của 8
loại virus tương tự mà Shi báo cáo rằng bà đã thu thập cùng lúc nhưng chưa
công bố mặc dù chúng có liên quan lớn đến tổ tiên của SARS2. Nhưng tất cả đó là
một câu chuyện cho một thời điểm khác. Vấn đề ở đây là virus dơi có thể lây nhiễm
trực tiếp cho người, mặc dù chỉ trong những điều kiện đặc biệt.
Vậy còn ai khác, ngoài những người khai thác
phân dơi, tiếp xúc đặc biệt gần với coronavirus dơi? Vâng, có các nhà nghiên
cứu về coronavirus. Shi cho biết bà và nhóm của mình đã thu thập hơn 1.300 mẫu
dơi trong khoảng tám chuyến thăm hang động Mojiang từ năm 2012 đến năm 2015, và
chắc chắn đã có nhiều chuyến thám hiểm đến các hang động Vân Nam khác.
Hãy tưởng tượng các nhà nghiên cứu thường
xuyên thực hiện các chuyến đi từ Vũ Hán đến Vân Nam và ngược lại, khuấy động
phân dơi trong các hang động và hầm mỏ tối tăm, và bây giờ bạn bắt đầu thấy
một mối liên hệ có thể đã mất giữa hai nơi. Các nhà nghiên cứu có thể đã bị
nhiễm trong các chuyến đi thu thập của họ, hoặc trong khi làm việc với các loại
virus mới tại Viện Virus học Vũ Hán. Virus thoát ra từ phòng thí nghiệm sẽ là
virus tự nhiên, không phải virus được chế bíến bằng thí nghiệm tăng chức
năng.
Luận điểm trực-tiếp-từ-dơi là một chimera
giữa các kịch bản ‘xuất hiện tự nhiên’ và ‘thoát ra từ phòng thí nghiệm’. Đó
là một khả năng không thể bác bỏ. Nhưng chống lại nó là những sự thật này: 1)
cả SARS2 và RaTG13 dường như chỉ có ái lực yếu với tế bào dơi, vì vậy người ta
không thể hoàn toàn tin tưởng rằng đã từng nhìn thấy (2 loại đó) bên trong của
một con dơi; và 2) lý thuyết (luận điểm) này không tốt hơn kịch bản xuất-hiện-tự-nhiên
trong việc giải thích cách SARS2 có được vị trí phân cắt furin, hoặc tại sao vị
trí phân cắt furin được quyết định bởi các codon arginine ‘thích (tế bào)
người’ hơn thay vì các codon ‘thích (tế bào) dơi’ hơn.
Lúc này chúng ta
đang ở đâu.
Vẫn chưa thể loại trừ giả thuyết xuất-hiện-tự-nhiên
hay giả thuyết thoát-ra-từ-phòng-thí-nghiệm. Vẫn không có bằng chứng trực tiếp
cho cả hai. Vì vậy không thể đưa ra kết luận dứt khoát.
Điều đó nói rằng, các bằng chứng có sẵn
nghiêng về một hướng mạnh mẽ hơn hướng khác. Người đọc sẽ tự hình thành ý kiến
của mình. Nhưng đối với tôi, dường như những người ủng hộ thuyết
thoát-ra-từ-phòng thí nghiệm có thể giải thích tất cả các dữ kiện có sẵn về
SARS2 dễ dàng hơn nhiều so với những người ủng hộ thuyết xuất-hiện-tự-nhiên.
Có tài liệu cho rằng các nhà nghiên cứu tại Viện
Virus học Vũ Hán đang thực hiện các thí nghiệm tăng chức năng được thiết kế để
làm cho coronavirus lây nhiễm các tế bào người và chuột được nhân hóa. Đây
chính xác là loại thí nghiệm mà từ đó virus giống SARS2 có thể xuất hiện. Các
nhà nghiên cứu đã không được tiêm vắc xin chống lại các virus đang nghiên cứu
và họ đang làm việc trong các điều kiện an toàn tối thiểu của phòng thí nghiệm
BSL2. Như vậy, một con virus sổng ra sẽ không có gì đáng ngạc nhiên. Trên
toàn bộ Trung Quốc, đại dịch bùng phát ngay trên ngưỡng cửa Viện Vũ Hán. Virus
này đã thích nghi tốt với con người, như được chờ đợi đối với một loại virus
phát triển trong (tế bào) chuột được nhân hóa. Nó có một yếu tố làm mạnh
lên một cách bất thường, một vị trí phân cắt furin, mà bất kỳ loại virus
beta-coronavirus liên quan đến SARS nào khác đều không có, và vị trí này bao
gồm một codon arginine kép cũng chưa được biết đến trong số các
beta-coronavirus. Bạn còn có thể muốn có thêm bằng chứng nào nữa, ngoài hồ sơ
phòng thí nghiệm hiện không thể sờ tới được ghi lại quá trình tạo ra SARS2?
Những người đề xuất sự xuất hiện tự nhiên có
một câu chuyện khá khó kể. Tính hợp lý của trường hợp của họ dựa trên một phỏng
đoán duy nhất, sự song song được monh đợi giữa sự xuất hiện của SARS2 và sự xuất hiện của SARS1 và MERS. Nhưng
chưa xuất hiện một bằng chứng nào được mong đợi ủng hộ một lịch sử song song
như vậy. Không ai tìm thấy quần thể dơi là nguồn gốc của SARS2, nếu thực sự nó
đã từng nhiễm bệnh cho dơi. Không có vật chủ trung gian nào xuất hiện, mặc dù
chính quyền Trung Quốc đã tiến hành tìm kiếm ráo riết bao gồm việc kiểm tra
80.000 con vật. Không có bằng chứng về việc virus thực hiện nhiều bước nhảy độc
lập từ vật chủ trung gian của nó sang người, như cả virus SARS1 và MERS đã làm.
Không có bằng chứng từ hồ sơ giám sát bệnh viện về sức mạnh tập hợp dịch trong
dân cư khi virus tiến hóa. Không có lời giải thích tại sao một dịch bệnh tự
nhiên lại bùng phát ở Vũ Hán và không ở đâu khác. Không có lời giải thích tốt
nào về việc làm thế nào mà virus có được vị trí phân cắt furin của nó, mà không
có beta-coronavirus liên quan đến SARS nào khác sở hữu, cũng như lý do tại sao
vị trí ấy lại hình thành từ các codon ưa thích tế bào người. Lý thuyết xuất
hiện tự nhiên đang dàn ra một trận địa toàn những điều phi lý đáng ngờ.
Hồ sơ của Viện Virus học Vũ Hán chắc chắn có
nhiều thông tin thích đáng. Nhưng dường như không có hi vọng các nhà chức
trách Trung Quốc sẽ cho mở chúng, vì nghĩ rằng chắc chắn chúng sẽ buộc
tội chế độ gây ra đại dịch. Thiếu vắng những nỗ lực của một số người thổi
còi can đảm của Trung Quốc, chúng ta có thể chỉ có trong tay tất cả các thông
tin liên quan mà chúng ta dễ dàng có được trong chốc lát.
Bởi vậy, cần cố gắng đánh giá trách nhiệm đối
với đại dịch, ít nhất là theo cách tạm thời, bởi vì mục tiêu tối quan trọng vẫn
là ngăn chặn một đại dịch khác. Ngay cả những người không bị thuyết phục rằng
việc thoát ra từ phòng thí nghiệm có nhiều khả năng là nguồn gốc của virus
SARS2 cũng có thể thấy lý do để lo ngại về tình trạng hiện tại của quy định
đối với nghiên cứu tăng chức năng. Có hai cấp độ trách nhiệm rõ ràng: thứ nhất,
cho phép các nhà virus học thực hiện các thí nghiệm tăng chức năng, mang lại lợi
ích tối thiểu và rủi ro lớn; thứ hai, nếu thực sự SARS2 được tạo ra trong phòng
thí nghiệm, để cho phép virus thoát ra ngoài và gây ra đại dịch trên toàn thế
giới. Dưới đây là những tay chơi có vẻ đáng bị đổ lỗi nhất.
1. Các nhà virus học Trung Quốc. Đầu tiên và quan trọng nhất, các nhà virus học Trung Quốc phải chịu
trách nhiệm cho việc thực hiện các thí nghiệm tăng chức năng trong điều kiện an
toàn chủ yếu ở mức BSL2, vốn quá lỏng lẻo để có thể kiềm chế một loại virus
có khả năng lây nhiễm không mong muốn như SARS2. Nếu virus thực sự đã thoát
từ phòng thí nghiệm của họ, họ xứng đáng bị cả thế giới chỉ trích vì một tai
nạn có thể thấy trước đã gây ra cái chết của ba triệu người. Đúng như vậy, Shi
đã được đào tạo bởi các nhà virus học người Pháp, làm việc gần gũi với các
nhà virus học người Mỹ và tuân thủ các quy tắc quốc tế về ngăn chặn
coronavirus. Nhưng bà ta có thể và lẽ ra phải tự đánh giá về những rủi ro mà
bà ấy đang quản lý. Bà ta và các đồng nghiệp của bà phải chịu trách nhiệm
về hành động của mình.
Tôi đã sử dụng Viện Virus Vũ Hán như một cách
viết tắt cho tất cả các hoạt động virus học ở Vũ Hán. Có thể SARS2 được tạo ra
trong một số phòng thí nghiệm khác ở Vũ Hán, có lẽ trong một cố gắng tạo ra
một loại vắc-xin hoạt động chống lại tất cả các coronavirus. Nhưng cho đến khi
vai trò của các nhà virus học Trung Quốc khác được làm rõ, Shi là gương mặt
công khai của Trung Quốc làm việc với coronavirus, và tạm thời bà ta và các
đồng nghiệp của mình sẽ đứng ở hàng đầu trong nỗi sỉ nhục này.
2. Nhà cầm quyền Trung Quốc. Chính quyền trung ương Trung Quốc không tạo ra SARS2, nhưng họ chắc
chắn đã làm hết sức mình để che giấu bản chất của thảm kịch và trách nhiệm của
Trung Quốc đối với nó. Họ đã ém nhẹm tất cả các hồ sơ tại Viện Virus Vũ Hán
và đóng cửa các cơ sở dữ liệu về virus của nó. Họ tung ra một lượng nhỏ thông
tin, phần lớn trong số đó có thể hoàn toàn sai sự thật hoặc được thiết kế để hiểu
sai và gây hiểu lầm. Họ đã cố gắng hết sức để thao túng cuộc điều tra của WHO về
nguồn gốc của virus và dẫn dắt các thành viên của ủy ban vào một cuộc chạy
loanh quanh không có kết quả. Cho đến nay, họ tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến việc
làm chệch hướng chỉ trích hơn là thực hiện các bước cần thiết để ngăn chặn
đại dịch thứ hai.
3. Cộng đồng các nhà virus học trên toàn thế giới. Các nhà virus học trên khắp thế giới là một cộng đồng chuyên nghiệp lỏng
lẻo. Họ viết bài trên cùng những tạp chí. Họ tham dự cùng những cuộc hội
nghị. Họ có chung lợi ích là tìm kiếm nguồn tài trợ từ các chính phủ và không
bị quá nặng vì các quy định an toàn.
Các nhà virus học hiểu rõ hơn ai hết sự nguy
hiểm của việc nghiên cứu tăng chức năng. Nhưng khả năng tạo ra các loại virus
mới, và tài trợ cho nghiên cứu có được khi làm như vậy, quá cám dỗ. Họ
được thúc đẩy bằng các thử nghiệm tăng chức năng. Họ đã vận động hành lang chống
lại lệnh tạm ngưng đối với quỹ Liên bang tài trợ cho nghiên cứu tăng chức
năng vào năm 2014 và nó đã được nâng lên vào năm 2017.
Những lợi ích của nghiên cứu trong việc ngăn
ngừa các dịch bệnh trong tương lai cho đến nay vẫn là con số không, rủi ro là
vô cùng lớn. Nếu nghiên cứu về các virus SARS1 và MERS chỉ có thể được thực
hiện ở mức độ an toàn BSL3, thì việc cho phép thực hiện bất kỳ công việc nào với
các coronavirus mới ở mức BSL2 thấp hơn là phi lý. Dù SARS2 có thoát khỏi
phòng thí nghiệm hay không, các nhà virus học trên khắp thế giới đã và vẫn
đang chơi với lửa.
Hành vi của họ từ lâu đã khiến các nhà sinh vật
học khác cảnh báo. Vào năm 2014, các nhà khoa học tự gọi mình là Nhóm Công tác
của Cambridge đã kêu gọi thận trọng trong việc tạo ra các loại virus mới. Bằng
những lời tiên tri, họ đã chỉ rõ nguy cơ của việc tạo ra một loại virus giống
SARS2. Họ viết: “những tai biến rủi ro với ‘mầm bệnh đại dịch tiềm tàng’ mới
tạo ra làm dấy lên những lo ngại mới”. “Việc phòng thí nghiệm tạo ra các chủng
vi rút nguy hiểm mới, có khả năng lây truyền cao, nhất là, nhưng không giới hạn
ở, bệnh cúm, làm tăng nguy cơ một cách căn bản. Nhiễm trùng ngẫu nhiên trong
một môi trường như vậy có thể kích hoạt các đợt bùng phát khó hoặc không thể kiểm
soát được”.
Khi các nhà sinh học phân tử phát hiện ra kỹ
thuật di chuyển gen từ sinh vật này sang sinh vật khác, họ đã tổ chức một hội
nghị công khai tại Asilomar vào năm 1975 để thảo luận về những rủi ro có thể xảy
ra. Bất chấp sự phản đối nội bộ, họ đã soạn ra một danh sách các biện pháp an
toàn nghiêm ngặt có thể được nới lỏng trong tương lai – và đúng là như vậy –
khi các mối nguy có thể xảy ra đã được đánh giá tốt hơn.
Khi kỹ thuật CRISPR để chỉnh sửa gen được phát
minh, các nhà sinh vật học đã triệu tập một báo cáo chung của các viện hàn lâm
khoa học quốc gia Hoa Kỳ, Anh và Trung Quốc để kêu gọi hạn chế thực hiện những
thay đổi di truyền đối với bộ gen người. Các nhà sinh học phát minh ra sự
truyền gen cũng đã công khai về nguy hiểm trong công việc của họ và tìm cách
thu hút sự chú ý của công chúng.
Bạn có thể nghĩ rằng đại dịch SARS2 sẽ thúc đẩy
các nhà virus học đánh giá lại lợi ích của nghiên cứu tăng chức năng, thậm chí
thu hút công chúng tham gia vào các cuộc thảo luận của họ. Nhưng không. Nhiều
nhà virus học coi giả thuyết thoát ra từ phòng thí nghiệm là một thuyết âm
mưu, và những người khác không nói gì. Họ đã tự phòng thủ sau bức tường im lặng
của Trung Quốc mà cho đến nay đang hoạt động tốt để xoa dịu, hoặc ít nhất là
trì hoãn sự tò mò của các nhà báo và sự phẫn nộ của công chúng. Những nghề
không thể tự điều chỉnh đáng bị người khác điều chỉnh, và đây dường như sẽ là
tương lai mà các nhà virus học đang chọn cho mình.
4. Vai trò của Hoa Kỳ trong việc tài trợ
cho Viện Virus học Vũ Hán. Từ tháng 6 năm 2014 đến tháng 5 năm 2019, Liên
minh Sức khỏe Sinh thái của Daszak đã nhận được khoản tài trợ từ Viện Dị ứng và
Bệnh truyền nhiễm Quốc gia (NIAID), một bộ phận của Viện Y tế Quốc gia (NIH),
để thực hiện nghiên cứu tăng chức năng với coronavirus tại Viện Virus học Vũ
Hán. Cho dù SARS2 có phải là sản phẩm của nghiên cứu đó hay không, thì có vẻ
như một chính sách đáng nghi ngờ khi nuôi dưỡng một nghiên cứu có nguy cơ cao
cho các phòng thí nghiệm nước ngoài không an toàn, sử dụng các biện pháp phòng
ngừa an toàn tối thiểu. Và nếu virus SARS2 thực sự thoát ra từ Viện Vũ Hán,
thì NIH sẽ thấy mình ở vị trí khủng khiếp khi đã tài trợ cho một thí nghiệm thảm
khốc dẫn đến cái chết của hơn 3 triệu người trên toàn thế giới, trong đó có hơn
nửa triệu công dân của chính họ. .
Trách nhiệm của NIAID và NIH thậm chí còn nặng
nề hơn vì trong ba năm đầu tiên tài trợ cho EcoHealth Alliance, đã có lệnh tạm
hoãn tài trợ cho nghiên cứu tăng chức năng. Vậy tại sao hai cơ quan không tạm dừng
tài trợ của liên bang, vì rõ ràng luật pháp yêu cầu phải làm như vậy? Vì ai đó
đã viết một kẽ hở vào lệnh cấm.
Lệnh đình hoãn đặc biệt cấm tài trợ cho bất
kỳ nghiên cứu tăng-chức-năng nào làm tăng khả năng gây bệnh của virus cúm, MERS
hoặc SARS. Nhưng sau đó, chú thích ở trang 2 của tài liệu tạm hoãn nói rằng
“một ngoại lệ từ việc tạm dừng nghiên cứu có thể được chấp nhận nếu người đứng
đầu cơ quan tài trợ USG xác định rằng nghiên cứu là cần thiết khẩn cấp để bảo vệ
sức khỏe cộng đồng hoặc an ninh quốc gia.”
Điều này dường như có nghĩa là giám đốc của
NIAID, Anthony Fauci, hoặc giám đốc của NIH, Francis Collins, hoặc có thể cả
hai, sẽ viện dẫn chú thích cuối trang để giữ tiền chảy vào nghiên cứu tăng-chức-năng
của Shi.
“Thật không may, giám đốc NIAID và giám đốc
NIH đã khai thác lỗ hổng này để ban hành miễn trừ cho các dự án bị Tạm dừng –
khẳng định một cách hết sức phi lý rằng nghiên cứu được miễn là ‘cần thiết khẩn
cấp để bảo vệ sức khỏe cộng đồng hoặc an ninh quốc gia’ – do đó vô hiệu hóa Lệnh
tạm dừng”, Ebright nói trong một cuộc phỏng vấn với Independent Science News.
Khi lệnh cấm kết thúc vào năm 2017, nó không
chỉ biến mất mà được thay thế bằng một hệ thống báo cáo, Khuôn khổ Giám sát và
Kiểm soát mầm bệnh gây Đại dịch Tiềm năng (P3CO), đòi hỏi các cơ quan báo
cáo để xem xét bất kỳ công việc tăng-chức-năng nguy hiểm nào mà họ muốn tài trợ.
Theo Ebright, cả Collins và Fauci “đã từ chối
gắn cờ và chuyển tiếp các đề xuất để xem xét rủi ro-lợi ích, do đó vô hiệu hóa
Khung P3CO.”
Theo quan điểm của ông, hai quan chức này,
trong việc xử lý lệnh cấm và hệ thống báo cáo tiếp theo, “đã ngăn cản một
cách có hệ thống các nỗ lực của Nhà Trắng, Quốc hội, các nhà khoa học và các
chuyên gia chính sách khoa học nhằm điều chỉnh nghiên cứu GoF [tăng-chức- năng]
liên quan.”
Có thể hai quan chức đã phải tính đến những vấn
đề không được ghi rõ trong hồ sơ công khai, chẳng hạn như các vấn đề về an ninh
quốc gia. Có lẽ việc tài trợ cho Viện Virus học Vũ Hán, nơi được cho là có quan
hệ với các nhà virus học quân sự Trung Quốc, đã cung cấp một cơ hội để nghiên cứu
tác chiến sinh học của Trung Quốc. Nhưng bất kể những cân nhắc nào khác có thể
liên quan, điểm mấu chốt là Viện Y tế Quốc gia đang trợ giúp nghiên cứu
tăng-chức-năng, của một loại có thể đã tạo ra virus SARS2, trong một phòng thí
nghiệm nước ngoài không được giám sát đang thực hiện công việc trong những điều
kiện an toàn sinh học BSL2. Sự thận trọng của quyết định này có thể bị chất
vấn, liệu SARS2 và cái chết của 3 triệu người có phải là kết quả của nó hay
không, điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải có một số hệ thống kiểm soát tốt
hơn.
Để kết luận.
Nếu trường hợp SARS2 xuất phát trong phòng thí
nghiệm là quan trọng như thế, tại sao điều này không được biết đến rộng rãi
hơn? Như bây giờ có thể rõ ràng, có nhiều người có lý do để không nói về nó. Tất
nhiên, danh sách này được dẫn đầu bởi các nhà chức trách Trung Quốc. Nhưng các
nhà virus học ở Hoa Kỳ và Châu Âu không quan tâm nhiều đến việc khơi dậy một cuộc
tranh luận công khai về các thí nghiệm tăng chức năng mà cộng đồng của họ đã
theo đuổi trong nhiều năm.
Cũng không có các nhà khoa học khác bước lên để
nêu vấn đề này. Các quỹ nghiên cứu của chính phủ được phân phối dựa theo tư
vấn của các ủy ban gồm các chuyên gia khoa học rút ra từ các trường đại học. Bất
cứ ai làm chao đảo con thuyền bằng cách nêu ra các vấn đề chính trị khó xử đều
có nguy cơ không được gia hạn tài trợ và sự nghiệp nghiên cứu của họ sẽ bị chấm
dứt. Có thể hành vi tốt sẽ được thưởng bằng nhiều bổng lộc xung quanh hệ thống
phân phối. Và nếu bạn nghĩ rằng Andersen và Daszak có thể đã làm vấy bẩn
danh tiếng về tính khách quan khoa học của họ sau các cuộc tấn công đảng phái của
họ vào kịch bản thoát ra từ phòng thí nghiệm, hãy nhìn vào cái tên thứ hai và
thứ ba trong danh sách những người nhận khoản trợ cấp 82 triệu đô la do Viện Dị
ứng Quốc gia công bố và Các bệnh truyền nhiễm vào tháng 8 năm 2020.
Chính phủ Hoa Kỳ chia sẻ một mối quan tâm
chung kỳ lạ với chính quyền Trung Quốc: Cả hai đều không muốn thu hút sự chú
ý đến thực tế rằng công trình coronavirus của Shi được tài trợ bởi Viện Y tế
Quốc gia Hoa Kỳ. Người ta có thể tưởng tượng cuộc trò chuyện hậu trường, trong
đó chính phủ Trung Quốc nói, “Nếu nghiên cứu này nguy hiểm như vậy, tại sao
các ngài lại tài trợ cho nó, và trên lãnh thổ của chúng tôi nữa?” Và phía Hoa
Kỳ có thể trả lời, “Có vẻ như chính các ngài đã để nó thoát ra. Nhưng chúng
ta có thực sự cần đưa cuộc thảo luận này ra công khai không?”
Fauci là một công chức lâu năm phục vụ liêm
chính dưới thời Tổng thống Trump và đã tiếp tục lãnh đạo trong Chính quyền
Biden trong việc xử lý dịch COVID-19. Rõ ràng là có thể hiểu được, Quốc hội có
thể không muốn lôi ông ta qua than hồng vì sự phán xét sai lầm rõ ràng trong
việc tài trợ cho nghiên cứu tăng-chức-năng ở Vũ Hán.
Còn phải thêm vào những bức tường im lặng
kín khít này sự im lặng của các phương tiện truyền thông dòng chính. Theo
hiểu biết của tôi, chưa có tờ báo hoặc mạng truyền hình lớn nào cung cấp cho độc
giả một câu chuyện tin tức chuyên sâu về kịch bản thoát-ra-từ-phòng thí nghiệm,
chẳng hạn như câu chuyện bạn vừa đọc, mặc dù một số đã đăng những bài xã luận
ngắn gọn hoặc những mẩu ý kiến. Người ta có thể nghĩ rằng bất kỳ nguồn gốc hợp
lý nào của một loại virus đã giết chết ba triệu người phải đáng có một cuộc
điều tra nghiêm túc. Hoặc rằng sự khôn ngoan của việc tiếp tục nghiên cứu
tăng-chức-năng, bất kể nguồn gốc của virus là gì, cũng đáng để tìm kiếm sự
thật. Hoặc việc tài trợ cho nghiên cứu tăng-chức-năng của NIH và NIAID trong
thời gian tạm hoãn nghiên cứu như vậy sẽ bị điều tra. Điều gì giải thích cho sự
thiếu tò mò rõ ràng của giới truyền thông?
Omertà (Luật im lặng) của các
nhà virus học là một lý do. Các phóng viên khoa học, không giống như các phóng
viên chính trị, có ít hoài nghi bẩm sinh về động cơ của các nguồn tin của họ; hầu
hết đều thấy vai trò của họ chủ yếu là chuyển trí tuệ của các nhà khoa học cho
đám đông đói thông tin. Vì vậy, khi các nguồn tin của họ không chịu giúp,
thì những nhà báo này chịu thua.
Một lý do khác, có lẽ, là sự di chuyển của phần
lớn các phương tiện truyền thông về phía tả của phổ chính trị. Vì Tổng thống
Trump đã nói virus đã thoát ra từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, các biên tập
viên đã không tin tưởng lắm về ý tưởng này. Họ đã nhập bọn với các nhà virus
học coi kịch bản thoát ra từ phòng thí nghiệm như một thuyết âm mưu có thể
bác bỏ. Dưới thời chính quyền Trump, họ không gặp khó khăn gì trong việc
bác bỏ lập trường của các cơ quan tình báo rằng không thể loại trừ việc
thoát ra từ một phòng thí nghiệm. Nhưng khi Avril Haines, giám đốc tình báo quốc
gia của Tổng thống Biden, nói điều tương tự, bà cũng hầu như bị phớt lờ. Điều
này không có nghĩa là các biên tập viên nên tán thành kịch bản thoát ra từ một
phòng thí nghiệm, chỉ đơn giản là họ nên xem xét khả năng này một cách đầy đủ
và công bằng.
Mọi người trên khắp thế giới đã bị giam giữ
khá nhiều trong nhà của họ trong năm qua có thể thích một câu trả lời tốt hơn những
gì mà phương tiện truyền thông đưa ra cho họ. Có lẽ sẽ có một câu trả lời xuất
hiện đúng lúc. Rốt cuộc, càng nhiều tháng trôi qua mà lý thuyết xuất hiện tự
nhiên không thu được chút ít bằng chứng hậu thuẫn, thì nó có vẻ càng ít hợp
lý hơn. Có lẽ cộng đồng các nhà virus học quốc tế sẽ đến chỗ bị coi là một hướng
dẫn sai lầm và vụ lợi. Nhận thức thông thường rằng một đại dịch bùng phát ở Vũ
Hán có thể liên quan đến việc một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán chế ra những loại
virus mới có mức độ nguy hiểm tối đa trong điều kiện không an toàn cuối cùng có
thể thay thế ý thức hệ khăng khăng rằng bất cứ điều gì Trump nói đều không thể
đúng.
Và sau đó hãy bắt đầu tính toán.
-----------
Chú thích:
* Chiếc hộp Pandora: Theo thần thoại
Hy Lạp, đó là một chiếc hộp được trao cho nàng Pandora – người phụ nữ đầu tiên
đến thế giới loài người. Nàng Pandora đã được thần Zeus dặn kĩ rằng không được
mở chiếc hộp đó ra. Nhưng vì tò mò, Pandora đã mở chiếc hộp ra và những gì từ
trong chiếc hộp kì bí đó bay ra đã khiến cho bất hạnh tràn ngập thế gian: thiên
tai, bệnh tật, chiến tranh… Cuối cùng, chiếc hộp chỉ còn sót lại một điều là
“hy vọng” để cho loài người để có thể tiếp tục sống.
[1] Trích dẫn này đã được thêm vào bài báo sau
khi xuất bản lần đầu.
Ghi nhận
Người đầu tiên có cái nhìn nghiêm túc về nguồn
gốc của virus SARS2 là Yuri Deigin, một doanh nhân công nghệ sinh học ở Nga và
Canada. Trong một bài tiểu luận dài và xuất sắc, ông đã mổ xẻ sinh học phân tử
của virus SARS2 và nêu ra, nhưng không tán thành, khả năng nó đã bị thao tác.
Bài tiểu luận, được xuất bản vào ngày 22 tháng 4 năm 2020, cung cấp một bản
đồ chỉ đường cho bất kỳ ai muốn hiểu nguồn gốc của virus. Deigin đã nén quá
nhiều thông tin và phân tích vào bài tiểu luận của mình đến nỗi một số người
không tin rằng nó có thể là tác phẩm của một cá nhân duy nhất và cho rằng tác
giả của nó phải là một cơ quan tình báo nào đó. Nhưng bài luận được viết bằng
giọng nhẹ nhàng và hài hước hơn những gì tôi nghĩ là từng thấy trong các báo
cáo của CIA hoặc KGB, và tôi không có lý do gì để nghi ngờ rằng Deigin chính
là tác giả duy nhất rất có năng lực của nó.
Sự tỉnh thức của Deigin đã tiếp bước theo một
số người khác hoài nghi về tính chính thống của các nhà virus học. Nikolai
Petrovsky đã tính toán mức độ liên kết chặt chẽ của virus SARS2 với các thụ thể
ACE2 của nhiều loài khác nhau và khiến ông ngạc nhiên rằng nó dường như được tối
ưu hóa cho thụ thể của tế bào người, khiến ông suy luận rằng virus có thể đã
được tạo ra trong phòng thí nghiệm. Alina Chan đã cho đăng một bài báo vạch ra
rằng SARS2 ngay từ lần đầu xuất hiện đã thích nghi rất tốt với tế bào người.
Một trong số rất ít các nhà khoa học có uy
tín chất vấn về việc các nhà virus học tuyệt đối bác bỏ giả thuyết ‘thoát
ra từ phòng thí nghiệm’ là Richard Ebright, người từ lâu đã cảnh báo về sự
nguy hiểm của nghiên cứu tăng-chức-năng. Một người khác là David A. Relman của
Đại học Stanford. Ông viết: “Mặc dù có rất nhiều ý kiến mạnh mẽ, nhưng không có kịch bản nào trong số
này có thể được khẳng định hoặc loại trừ một cách chắc chắn với các sự kiện
hiện có,” ông viết. Robert Redfield, cựu giám đốc của Trung tâm Kiểm soát và
Phòng ngừa Dịch bệnh, vào ngày 26 tháng 3 năm 2021, đã nói với CNN rằng “rất có
thể” nguyên nhân gây ra dịch bệnh là “từ phòng thí nghiệm”, vì ông không tin rằng
virus dơi có thể trở thành một mầm bệnh cực kỳ nguy hiểm cho con người chỉ
sau một đêm, mà không cần thời gian để phát triển, như trường hợp của SARS2.
Steven Quay, một bác sĩ kiêm nhà nghiên cứu,
đã áp dụng các công cụ thống kê và tin sinh học để khám phá tài tình về nguồn gốc
của virus, chỉ ra chẳng hạn như cách các bệnh viện tiếp nhận những bệnh
nhân đầu tiên tụ họp thành cụm dọc theo tuyến tàu điện ngầm Wuhan №2 nối
Viện Vi rút học ở một đầu với sân bay quốc tế ở đầu kia, làm thành một băng
chuyền hoàn hảo để phân phối vi rút từ phòng thí nghiệm ra đến toàn cầu như
thế nào.
Vào tháng 6 năm 2020, Milton Leitenberg đã
công bố một cuộc khảo sát ban đầu về các bằng chứng ủng hộ giả thuyết thoát
ra từ nghiên cứu tăng-chức-năng tại phòng thí nghiệm của Viện Virus học Vũ
Hán.
Nhiều người khác đã đóng góp những mảnh ghép
đáng kể cho việc giải câu đố này. Francis Bacon nói, “Sự thật là người con
gái không phải của quyền lực, mà của thời gian.” Những nỗ lực của những người
như những người có tên trên đây đã chứng thực chân lý ấy.
(Hết)
-------------------
Nguồn :
The
origin of COVID: Did people or nature open Pandora’s box at Wuhan?
May 5, 2021
Bulletin
of the Atomic Scientists
Tác giả Nicholas Wade:
Nicholas Wade là một nhà văn, biên tập viên và tác
giả khoa học đã làm việc trong bộ biên tập của Nature, Science và New York Times trong nhiều năm.
Dịch giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment