GIAI TẦNG XÃ HỘI DỰA TRÊN THU NHẬP Ở VIỆT
NAM, 1998-2018
Phân
Tích Kinh Tế
6.12.2020
http://www.phantichkinhte123.com/2020/12/giai-tang-xa-hoi-dua-tren-thu-nhap-o.html#more
Tóm tắt: Dựa trên số liệu khảo sát mức sống dân cư Tổng
cục Thống kê thực hiện trong hai thập niên qua, bài viết phân tích cơ cấu giai
tầng xã hội dựa trên thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 1998-2018. Hệ số chênh lệch
thu nhập giữa các giai tầng xã hội ngày càng tăng trong giai đoạn này. Mức
chênh lệch đặc biệt rõ ở tầng lớp trung lưu trên và giai tầng trên. Mức chênh lệch
thay đổi chậm trong thập niên 2000, nhưng nhanh hơn trong thập niên 2010. Có tiến
hóa đáng kể về hình dạng phân tầng hai thập niên qua. Năm 1998 cơ cấu giai tầng
còn ở dạng tháp, nhưng 2018 trở nên dạng thoi. Cơ cấu giai tầng ở nông thôn tiến
hóa chậm hơn khoảng mười năm, nhưng trong thập niên 2010 đã chuyển biến mang
tính bước ngoặt.
Từ khóa: cơ cấu xã hội, phân
tầng xã hội, giai tầng xã hội, giai cấp xã hội, Việt Nam, khảo sát mức sống dân
cư.
Cơ cấu
xã hội và phân tầng xã hội là lĩnh vực nghiên cứu được quan tâm ở Việt Nam từ
nhiều thập niên (Bùi Thế Cường, 2015c, 2016, 2019b). Trong hướng này, nhiều tác
giả xây dựng sơ đồ phân loại giai cấp và/hoặc tầng lớp xã hội, để nhận diện bộ
khung lõi của cơ cấu xã hội.
Bài
viết đề xuất một khung phân loại giai tầng xã hội dựa trên thu nhập, dùng nó xử
lý dữ liệu ba cuộc khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê, để nhận diện
cơ cấu giai tầng xã hội ở Việt Nam giai đoạn 1998-2018. Bài viết là sản phẩm của
Đề tài “Cơ cấu giai tầng xã hội vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2010-2020” do Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phê duyệt và tài trợ.
Bài
viết năm phần. Sau mở đầu, phần hai thảo luận khái niệm, tình hình nghiên cứu
và khung phân tích. Phần ba đề cập phương pháp và nguồn số liệu. Phần bốn trình
bày kết quả phân tích. Phần cuối tóm tắt kết quả chính.
2.
Tình hình nghiên cứu và khung phân tích
Giai
cấp xã hội hay giai tầng xã hội, tầng xã hội hay phạm trù xã hội hay nhóm xã hội?
Đây là truyền thuyết dài trong
lịch sử xã hội học thế giới, Việt Nam không ngoại lệ. Tùy tác giả, quốc gia và
thời đại, những thuật ngữ trên hoặc được coi có tính chất khác hẳn nhau hoặc
ngược lại được chấp nhận thay thế nhau dễ dàng. Chẳng hạn, theo Heinz-Herbert
Noll (1997:105): “Trong văn liệu Mỹ, khái niệm “giai cấp” [class] và “giai tầng”
[strata] thường sử dụng như nhau. Trong khi ở Đức có khác biệt rõ ràng giữa
“giai cấp” [Klassen] và “giai tầng” [Schichten] cả trong xã hội học lẫn đời thường.
Nhìn chung, người ta cho rằng thuật ngữ “Schicht” có nghĩa trung tính hơn, thậm
chí nghĩa khẳng định hơn, so với thuật ngữ “Klasse” liên hệ đến quan điểm có
tính phê phán hơn, một quan điểm nhấn mạnh vào xung đột của xã hội. Trong đời
thường cũng thế, ý tưởng của thuật ngữ “class” thường đi liền với xuất xứ và
nghĩa mang tính Marxist”[1]. Tương tự, ở Anh thuật ngữ “giai cấp” [class]
cũng dùng và hiểu đa nghĩa cả trong văn bản chính thức, học thuật lẫn đời thường.
Một mặt, nhiều người dùng và hiểu theo nghĩa gần với quan điểm marxist hay quan
điểm xung đột giai cấp. Mặt khác, cũng nhiều người dùng theo nghĩa không có gì
khác nhau và do đó có thể thay thế nhau giữa các thuật ngữ “classes” (như là sự
phân lớp, kết quả của hành động “classification”), “grades”, “gradings”,
“socio-economic groups”.
Trong
bài viết này, nhóm tác giả dùng “giai tầng xã hội” như một khái niệm làm việc để
phân tích thống kê, tạm gác sang bên khía cạnh lý thuyết của vấn đề. “Giai tầng
xã hội” tạm hiểu là một lối kết hợp ý nghĩa của “giai cấp” và “tầng lớp xã hội”.
Nói
về nghiên cứu phân tầng xã hội dù chỉ ở Việt Nam đương đại thôi, cũng cần nhiều
trang viết. Ở đây, chỉ đề cập sơ lược và tập trung hơn vào hướng phân loại giai
tầng theo thu nhập hay chi tiêu, hướng mà bài viết sẽ đi theo trong khung phân
tích của mình.
Ở Việt
Nam sau 1975 đến nay liên tục xuất hiện cố gắng đưa ra những phân loại lý thuyết
hay thực nghiệm đối với cơ cấu xã hội. Thập niên 1980, một số tác giả phân loại
dựa trên tiếp cận marxist, dùng tiêu chí quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, như Hồng
Giao, Thanh-Giang, Trần Hữu Quang, Lê Minh Ngọc, Đỗ Thái Đồng (một tổng quan về
các tác giả này trong thập niên 1980, xem: Bùi Thế Cường, 2019b). Sang những thập
niên sau, một số tác giả mở rộng khung phân tích, kết hợp quan hệ sở hữu và
tiêu chí nghề (Đỗ Nguyên Phương, 1993, 1994; Tạ Ngọc Tấn, 2013).
XEM TIẾP : http://www.phantichkinhte123.com/2020/12/giai-tang-xa-hoi-dua-tren-thu-nhap-o.html
No comments:
Post a Comment