Quan Điểm
Về Cải Cách Chính Trị Thông Qua Công Cuộc Phòng Chống Tham Nhũng
Lê
Thân
Viet
Studies 29/11/2020
http://www.viet-studies.net/kinhte/LeThan_QuanDiemCaiCach.html
Tình trạng tham nhũng ở VN tính đến nay đã trở
thành trung tâm sự chú ý của tất cả mọi người dân và cũng là mối bận
tâm lớn nhất của Đảng và nhà nước. Tham nhũng đã trở thành quốc bệnh
quan hệ đến tồn vong của chế đô thì chống tham nhũng đương nhiên cũng phải được
coi là quốc sách hàng đầu, cần đến sự nổ lực đồng bộ của toàn đảng toàn dân . Từ
20 năm nay, nhiều luật lệ, chỉ thị về phòng chống tham nhũng đã được ban hành,
cùng với biết bao tiếng nói đóng góp của các vị nhân sĩ trí thức, nhưng thực tế
quốc bênh tham nhũng chẳng được đẩy lùi mà còn có biểu hiện ngày càng tăng năng
đến mức vô phương cứu chửa.
Tình trạng các giải pháp đã đưa ra hoặc
đã thực thi đều tỏ ra vô hiệu kể cả việc “ đốt lò” , chúng tôi thiết tha mong
muốn xã hội ổn định , nền kinh tế đất nước phát triển nhân dân được hạnh phúc,
xin nêu ra sau đây một số quan điểm và giải pháp phòng chống tham nhũng bằng một
lộ trình hết sức thực tế và có tính khả thi.
Những ý kiến nêu ra trong bản kiến nghị
này có khả năng gây tranh luận , nhưng chúng tôi vẫn mạnh dạn nêu
lên để rộng đường tham khảo.
***
QUAN
ĐIỂM VỀ CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ
THÔNG
QUA CÔNG CUỘC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
Lê Thân
(Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng)
Tham nhũng ở nước ta đã
trở thành quốc nạn là một thực tế hiển nhiên bất khả tranh luận mà ai ai cũng
phải thừa nhận. Càng đáng ngại hơn khi kết quả của những nỗ lực chống tham
nhũng do Đảng và Nhà nước phát động ít nhất từ gần nửa thế kỷ nay cho thấy rất hạn
chế nếu chưa muốn nói hoàn toàn vô hiệu: tham nhũng chẳng những không giảm bớt
mà còn có chiều hướng gia tăng về quy mô, tính chất và mức độ phổ biến, biểu hiện
một cách tinh vi thiên hình vạn trạng vượt khỏi tầm kiểm soát của cả hệ thống
chính trị, dẫn đến thực tế số cán bộ tham nhũng từ trung ương đến địa
phương bị phát hiện vào tù ngày ) đông đảo, không kể những trường hợp “chưa bị
lộ”, đã khiến cho dân chúng ban đầu càng hi vọng bao nhiêu thì về sau lại càng
thất vọng bấy nhiêu, kể cả chiến dịch “đốt lò” mô phỏng theo mô hình “đả hổ diệt
ruồi” của Trung Quốc!
Ở nước ta cũng như tại một
số nước Châu Á đang phát triển, ngoài “tham nhũng đất đai”, “tham nhũng dự án”
rất phổ biến và nổi trội, với những mối lợi cực kỳ hấp dẫn, còn có nạn “tham
nhũng quyền lực”, “tham nhũng chính trị”, mua quan bán chức ,điều kiện để thiểu
số nhóm lợi ích thủ đắc các quyền lợi vật chất béo bở, với những khối
tài sản của chìm của nổi kếch xù và có cuộc sống còn hơn cả đế vương thời phong kiến. Tình trạng
này đặc biệt đúng với trường hợp của Việt Nam và Trung Quốc, hai nước có thể chế
chính trị gần giống hệt như nhau.
Trong thực tại Việt Nam,
nhìn đâu cũng thấy có nạn tham nhũng, từ tham nhũng lớn đến tham nhũng vặt, “ăn
không từ một thứ gì” (lời bà nguyên phó chủ tịch nước NTD). Tình trạng ác hóa đến
nỗi, có lần cố Tổng bí thư Đỗ Mười phải than: “Như hiện nay, xin đi học, hay
vào bệnh viện đều phải có... tí phong bì”. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói về
hiện tượng thoái hóa của một số cán bộ nhà nước: “Nếu có phát hiện thì... hi
sinh đời bố, củng cố đời con!”... Cho nên có thể nói, tham nhũng đã và
đang trở thành tập tính của toàn thể giới cán bộ đảng viên đang nắm giữ các chức
quyền ở mọi ngành hoạt động trong bộ máy Đảng-Nhà nước, diễn ra khắp các cơ
quan đoàn thể từ hành chính sự nghiệp đến công an, bộ đội, tư pháp, các ngành
hoạt động tri thức về văn hóa-giáo dục-y tế-xuất bản, thâm nhập cả vào trong
các hội từ thiện, các chốn chùa chiền, và không loại trừ kể cả những cơ quan
trung ương chuyên biệt được đặt ra để phòng chống tham nhũng, … vì thế có khả
năng lan tỏa sâu rộng vào quảng đại quần chúng trở thành một hiện tượng quen
thuộc hầu như có thể gọi là tập tính của xã hội người Việt.
Tham nhũng tràn lan không
chỉ làm mất lòng tin của dân chúng vào các nhà đương cuộc và chế độ chính trị,
mà còn làm cho nhân dân điêu đứng, dân khí bại hoại, quốc lực hao mòn, bộ máy
hành chính trở nên tê liệt, mất kiểm soát và bất lực, trên bảo dưới không nghe,
mọi ý đồ tốt đẹp của quốc gia về kinh tế-xã hội đều bị phá sản, dẫn tới hậu quả
tình trạng phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội ngày càng trở nên sâu sắc,
các tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, lừa đảo cũng gia tăng theo; đạo đức xã hội
suy thoái, quan hệ giữa người và người bớt lành mạnh đi, niềm tin vào tương lai
cuộc sống của dân chúng bị xói mòn đến mức gần như cạn kiệt.
Với tình trạng quốc bênh
tham nhũng trầm trọng và càng chống càng tăng như hiện nay, nước Việt Nam mà đại
diện chịu trách nhiệm là bộ máy cầm quyền hiện hữu, đang giống hệt một con bệnh
trầm kha tìm cách kéo dài sinh mệnh bằng thuốc để chờ ngày kết thúc sự sống khi
thuốc uống đã không còn hiệu lực. Nói theo cách diễn đạt đông y, phải dùng cả
thuốc “bổ” lẫn thuốc “tả”, và những vị thuốc trung tính: thuốc bổ là những lời
động viên học tập theo lời dạy đạo đức của lãnh tụ tiền bối, đã tỏ ra hoàn toàn
vô hiệu trước một cơ địa đã rệu rã không còn khả năng tiếp nhận; thuốc trung
tính có thể ví như những đạo luật, nghị định, chỉ thị về phòng chống tham
nhũng, kiểm kê tài sản hoặc những bộ quy tắc ứng xử dành cho cán bộ công nhân
viên chức các cấp mà trên thực tế đã trở thành những mớ giấy lộn không thể áp dụng
vì cũng không hợp cơ địa; thuốc “tả” có tính công phạt mạnh mang nhiều độc chất
để cứu mạng bệnh nhân vào giờ chót, tương đương với biện pháp bắt bớ “đốt lò”
trên diện rộng, nhưng lại là con dao hai lưỡi, có khả năng dẫn người bệnh càng
đi nhanh đến chỗ tử vong.
Trong cơn thập tử nhất
sinh, cả bệnh nhân lẫn thầy thuốc đều trở nên mất bình tĩnh, tối mắt không còn
thấy con đường chữa trị hợp lý và có thể sẽ làm liều bằng cách cho thuốc ẩu, nếu
so sánh với hành động chính quyền của nhà cầm quyền hiện tại thì đó chính là
cách họ dùng lực lượng công an và hệ thống tòa án để trấn áp, cầm tù những người
dân khiếu kiện nạn tham nhũng đất đai, như đã áp dụng trong trường hợp huy động
lực lượng cả ngàn quân công an trấn áp và tiêu diệt công dân/ đảng viên 84 tuổi
đời 56 tuổi đảng Lê Đình Kình trong vụ án Đồng Tâm hiện vẫn còn đang gây chấn động
dư luận cả trong lẫn ngoài nước. Một cái cách thô bạo chà đạp dân chủ dân quyền,
đứng trên luật pháp và công luận mà người ta cho rằng chính là biểu hiện cơn
giãy chết của một chế độ chính trị đang suy tàn tự đào mộ chôn mình vì nó đã
dám chống lại nhân dân trong nước cùng tất cả những người yêu chuộng công bằng
trên toàn thế giới.
Trên thực tế hiện nay, “đốt
lò” đã tỏ ra không hiệu quả, vì muốn đốt lò bắt buộc phải dùng các lực lượng
công an, thanh tra, kiểm tra, viện kiểm sát, tòa án… trong khi chính những lực
lượng này do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) độc tài toàn trị chỉ đạo đứng trên
luật pháp trong một nền tư pháp không độc lập lại là những ổ vi trùng tham
nhũng đôi khi còn nặng hơn cả những đối tượng tham nhũng mà nó muốn tiêu diệt,
biến công cuộc chống tham nhũng trở thành cái cớ hoặc để tự nâng cao uy tín cá
nhân của người chỉ huy trước một đám quần chúng hãy còn hồn nhiên cả tin, hoặc
để thanh trừng nội bộ trong cuộc tranh giành quyền lực quyết liệt hình thành cục
diện chính trị quả đầu thu tóm quyền lực vào tay một số ít người hoặc nhóm người
trong giới chóp bu để chia quyền tham nhũng, điều đặc biệt lộ rõ từ Đại hội XII
ĐCSVN năm 2016 và nhất là trước thềm Đại hội XIII dự kiến sẽ diễn ra vào đầu
năm sau,
2021.
Chống tham nhũng luôn vướng
phải cái vòng luẩn quẩn: muốn làm được hiệu quả cần phải có một chính phủ trong
sạch lành mạnh, trong khi chính phủ đó đã và đang bị nghiền nát do chính bệnh
tham nhũng, trở nên mất kiểm soát và thụ động bất lực. Khá đông trong thành phần
cán bộ đảng viên có chức có quyền thật ra họ chẳng muốn cho tình trạng hỗn loạn
về luật pháp, hành chính sớm được chấm dứt, để đục nước béo cò, trong chừng mực
cho phép là Đảng và chính phủ đó của họ vẫn chưa bị sụp đổ trước khi họ còn có
thể kiếm chác được, như thực tế trong vài chục năm nay đã từng chứng tỏ. Chống
tham nhũng rốt cuộc vì thế chỉ trở thành khẩu hiệu suông để tuyên truyền chính
trị, vì thực tế từ khi “đổi mới” năm 1986 với Đại hội Đảng VI trở đi, tham
nhũng trở thành đại dịch, năm sau cao hơn năm trước. Đến nay, theo sự xếp hạng
của Tổ chức Minh bạch Quốc tế năm 2019, Việt Nam đạt vị trí số 2 trong 5 quốc
gia tham nhũng nhất thế giới, chỉ đứng sau Ấn Độ.
Nguyên nhân chủ yếu của
quốc nạn tham nhũng, người ta đã phân tích nhiều và ai cũng biết, đó là do lỗi
hệ thống, trong điều kiện ĐCSVN độc quyền toàn trị, triệt tiêu dân chủ.
Vì không có dân chủ nên
thực tế cho thấy, công an, tòa án, quốc hội, các ban thanh tra (Đảng, Chính phủ),
nhà tù,… đều không chống được tham nhũng, do tất cả các định chế/ tổ chức này đều
một giuộc như nhau, không ai độc lập với ai, và đều
nằm dưới sự kiểm soát chỉ đạo của một đảng chính trị độc quyền: Tuy Điều 4 Hiến
pháp 2013 có nêu rõ “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhưng thực tế Đảng lại đứng
trên cả nhân dân và luật pháp, làm méo mó công lý, như hàng chục vụ xét xử tham
nhũng lớn đã từng chứng tỏ.
Trước tình trạng bi thảm
luẩn quẩn tiến thối lưỡng nan này của đất nước, rất nhiều người bức xúc nhưng
bi quan cho rằng như thế thì đã hỏng bét tuyệt đối, chống tham nhũng là “kế bất
khả thi”, chỉ còn cách duy nhất kiên nhẫn chịu đựng chờ cho Đảng CS toàn trị ở
Việt Nam sụp đổ, và nếu cứ khư khư không chịu sửa đổi thì trước sau gì nó cũng
sẽ sụp đổ, vấn đề chỉ còn là thời gian. Đây là một loại ý kiến rất đáng được
chú ý, không thể bỏ qua, và dường như không ít đảng viên ĐCSVN cũng đã mường tượng
ra cái kết quả bi thảm tương tự trong tương lai, nên họ nhắc nhở nhau phải đề
cao cảnh giác nguy cơ, tìm cách cứu Đảng (viết ra trong các bài báo trên tạp
chí Cộng Sản, tạp chí Xây Dựng Đảng…, hoặc nói chuyện
trong các buổi sinh hoạt cán bộ chủ chốt…), và một số người trong họ khi có điều
kiện cũng đã cho con em đi học nước ngoài (dặn ở luôn bên đó đừng về…), gởi tiền
ngân hàng nước ngoài, mua nhà nước ngoài, mua quốc tịch nước ngoài…, dợm chân tháo
chạy một khi Đảng CS thật sự sụp đổ.
Quan điểm của chúng tôi
không phủ nhận hoàn toàn loại ý kiến như vừa nêu trên, nhưng có một hướng nghĩ
và niềm tin khác. Căn cứ vào thực tế lịch sử, nền chính trị và thực tiễn xã hội
đặc thù Việt Nam, chúng tôi cho rằng công cuộc chống tham nhũng để mở đường cho
đất nước tiến lên là còn có tính khả thi và vẫn phải do ĐCSVN hiện tại thống nhất
giềng mối chủ trì thực hiện, với hi vọng thành công rất lớn, và với điều kiện
phải có một quyết tâm chính trị lớn tương đương, bằng con đường cải cách thể chế
(gọi tắt “cải chế”) theo hướng dân chủ hóa đời sống xã hội.
Trong bản tuyên bố quan
điểm này, chúng tôi thấy không cần mất thì giờ đưa ra những giải pháp chống
tham nhũng cụ thể, vì những giải pháp như vậy đã được bàn thảo quá đầy đủ trên
báo chí, trong bài viết của các vị nhân sĩ trí thức tâm huyết, trong các cuộc hội
thảo ở các cơ quan báo chí, trường đại học, viện nghiên cứu, và nhất là tại diễn
đàn Quốc hội, từ suốt mấy chục năm nay, mà các nội dung cơ bản cũng đã được thể
hiện phần lớn trong Luật phòng chống tham nhũng 2018, trong các nghị quyết, nghị
định, quyết định, chỉ thị liên quan vấn đề do Đảng-Nhà nước ban hành rồi. Vấn đề
cốt lõi và có tính quyết định là làm sao phải thực hiện cho đúng những điều đã
ghi trong các loại văn bản kể trên, mà chúng tôi dù có cố nghĩ thêm cũng không
hơn được. Nếu cần, chúng ta có thể tham khảo thêm kinh nghiệm phòng chống tham
nhũng có sẵn rất hiệu quả của Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore… là được, và tài liệu
tham khảo thì có đầy, không phải mất công kiếm đâu xa.
Tựu trung và đại khái
cũng chỉ là: Những người lãnh đạo đất nước phải trong sạch, gương mẫu, bởi một
lẽ đơn giản gói gọn trong chân lý bất di bất dịch “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”,
“Thượng chính, hạ nghiêm”; thực hiện nguyên tắc công khai minh bạch trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước; khi phát hiện các vụ việc tham nhũng phải tập
trung xử lý và xử lý nghiêm khắc, trừng trị thích đáng kẻ tham nhũng; chống
tham nhũng từ trên xuống, từ trong ra và không có vùng cấm.
Điều chúng tôi sắp trình
bày thậm chí cũng không muốn lặp lại ngay cả những điều vừa ghi lại ở trên, đã
quá nhàm, vì điều kiện tiên quyết thứ nhất ( “Thượng chính, hạ nghiêm”) là đúng
tuyệt đối, nhưng điều kiện tiên quyết này, chúng ta phải thừa nhận một thực tế
cay đắng và đau lòng, là đất nước chúng ta, ít nhất cũng trong hiện tại, hầu
như không còn có “Thượng chính” nữa rồi, sau 45 năm xây dựng CNXH kiểu
như đã làm dưới chế độ độc đảng toàn trị dung túng cho các phần tử đặc quyền, vốn
là căn nguyên của tham nhũng. Lý do: Các nhà lãnh đạo cấp cao phần lớn tay đều
đã “nhúng chàm”, ở những mức độ khác nhau; kẻ liêm chính, ngay thẳng, nhiều lý
tưởng ít thủ đoạn và có đủ tài đức nếu không chịu quy ẩn nghỉ hưu sớm thì cũng
không thể nào trèo lên đến vị trí chỉ huy cao có đầy đủ thực quyền; thảng hoặc
có vị nào liêm khiết được đưa vào các tổ chức chống tham nhũng thì trước sau
cũng phải từ chức hoặc bị loại trừ… Một số người ban đầu rất lý tưởng muốn phục
vụ nhân dân, nhưng khi tham gia lâu vào bộ máy độc quyền đạt địa vị cao thì
cũng trở nên biến chất thành quan tham, thụ động hoặc tích cực. Đây là một thực
tế hùng hồn sinh động, mà nếu không can đảm thừa nhận, mọi giải pháp đưa ra để
phòng chống tham nhũng ở Việt Nam trong điều kiện độc đảng cầm quyền đều trở
thành lý thuyết suông, vô vọng.
Điều nhận định như trên
được nêu ra có nghĩa rằng, chúng ta tạm thời không đòi hỏi điều kiện
lý tưởng phải có những nhà lãnh đạo cấp cao đều trong sạch, vì đây là điều
không thể có được trong một bộ máy cầm quyền đã và đang bị thối nát gần như tột
độ. Cũng có nghĩa rằng chúng ta tạm thời chấp nhận một số kẻ xấu cầm
quyền không trong sạch đã được ăn no, giàu có lên nhờ tham nhũng trong hàng ngũ
“tứ trụ” và trong một số cấp trung gian từ chức bộ trưởng trở xuống, miễn tất cả
họ đồng loạt nhận thức ra được tình hình mới, rằng từ nay trở đi họ không chỉ
phải dừng hành vi tham nhũng lại mà còn phải ra tay điều trị quốc bệnh tham
nhũng, chẳng cần bằng sáng kiến gì mới mà chỉ cần bằng cách nghiêm minh thực
thi những luật pháp do chính Đảng của họ đặt ra, bởi nếu không thì bản thân họ
cũng sẽ bị nhân dân nguyền rủa lật đổ cùng với Đảng độc tài của họ. Người dân
Việt Nam giờ đây đòi hỏi sự “cải chế” cũng do chính ĐCSVN hiện tại lãnh đạo, bằng
con đường dân chủ hóa đời sống xã hội, thực thi đúng những điều Hiến pháp 2013
quy định cho phép, trong đó có: Điều 4 nêu rõ “Các tổ chức của Đảng và đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”;
Điều 7: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến
hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ bỏ phiếu kín”; Điều
25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội
họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”…
Một trong những giải pháp
được đưa ra để chống tham nhũng từ lâu và hiện nay là kiểm kê tài sản cán bộ (mới
nhất là Nghị định 130/2020/NĐ-CP ban hành ngày 30.10.2020), thì việc này, tuy
không thể không làm, nhưng theo quan điểm của chúng tôi, cũng lại không khả thi
và không thể được coi là giải pháp cơ bản. Bởi một lẽ đơn giản, trong điều kiện
Đảng CS độc quyền lãnh đạo, bất cứ người đầy tớ nào của nhân dân trở nên giàu
có cũng đều nhờ tham nhũng ít nhiều, chứ không bằng đồng lương, thể hiện dưới mọi
hình thức từ tinh vi đến trắng trợn, nên bảo họ kê khai tài sản trung thực là
điều hầu như không thể được. Cố Thủ tướng Phan Văn Khải đã từng phát biểu trước
diễn đàn Quốc hội hồi tháng 12.2004: “Khi đề bạt cán bộ thì bắt khai tài sản,
nhưng họ rất khôn khi để cho con đứng tên, vợ đứng tên... Thành ra đặt vấn đề
thu hồi tài sản bất chính là rất khó”. Nguyên Phó thanh tra Chính phủ Vũ Phạm
Quyết Thắng khi đó cũng nói: “Nếu bây giờ kê khai, nhiều công chức đang có sẽ
hóa ra không có tài sản, vì họ đã ‘gửi’ cho cháu chắt hết rồi”.
Cho đến hiện nay, cả khi
tội phạm tham nhũng bị phát hiện và đã bị đem ra xét xử trừng trị,
người phạm tội bị phạt tù vài tháng hoặc vài năm, thì những quyền lợi mà dân
chúng bị mất về hành vi tham nhũng do họ gây ra trên thực tế cũng không lấy lại
được, nên chỉ còn lại chuyện ở tù trừ; hoặc một số cấp dưới liên quan vụ việc đứng
ra ở tù đại diện cho cấp trên để chuẩn bị cho một chiến thuật hạ cánh an toàn tập
thể trong một nền tư pháp thiếu hẳn sự độc lập trong các khâu điều tra, xét xử.
Với những tình trạng được
miêu tả như trên, phải thẳng thắn nhận định rằng, nếu vẫn cứ tiếp tục bằng những
biện pháp cũ truyền thống như học tập nghị quyết, cổ động nêu gương lãnh tụ,
phê bình kiểm điểm, thanh tra kiểm tra, cảnh cáo kỷ luật, đình chỉ công tác, thậm
chí bắt bớ bỏ tù..., nạn tham nhũng vẫn khó bị đẩy lùi, nếu như cái điều căn bản
là toàn bộ hệ thống chính trị-kinh tế do đặc điểm và những khuyết tật bên trong
của nó mà tệ nạn tham nhũng phát sinh, không được điều chỉnh một cách đúng mức
cần thiết.
Về sự bất lực của hệ thống,
rất nhiều quan chức hiện nay đã công khai thừa nhận, như chính cố Thủ tướng
Phan Văn Khải trước đây khi vừa rời khỏi chính trường cũng có lần phát biểu trả
lời phỏng vấn trước Quốc hội: “Rất nhiều lần tôi nói cả hệ thống chính trị
chứ không chỉ hệ thống hành chính của chúng ta có vấn đề, cần phải cải cách, chấn
chỉnh, nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực, chống cho được tham nhũng, tiêu cực,
nhũng nhiễu...”.
Cùng một ý như trên nhưng
TS Lê Đăng Doanh thì lại có lối nói thực tế dễ hiểu hơn: “Chỉ trừng phạt
thôi thì người này đổ, người khác sẽ lên. Cơ chế nếu không thay đổi thì người mới
lên sẽ... tệ không kém, thậm chí còn ‘cáo’ hơn anh trước”.
Xét bối cảnh lịch sử cụ
thể Việt Nam, từ hoàn cảnh chiến tranh, bao cấp, ăn độn, thiếu thốn mọi bề
trong một nền kinh tế khép kín nay chuyển sang kinh tế thị trường, vậy nên hiện
tượng tham nhũng-đặc quyền lan rộng trong tầng lớp cán bộ (vốn cũng là những
con người bằng xương bằng thịt và biết tham lam chứ chẳng phải thánh nhân)
tuy thể không phê phán và tìm cách ngăn chận nhưng cũng cần được
nhìn nhận lại một cách khoan dung, nhân bản, khách quan và chân thật hơn, như một
tất yếu lịch sử, và như một hiện tượng mà thực tế sinh động của đời sống không
cho phép tránh khỏi, phủ nhận, chứ không phải chỉ có một mặt tiêu cực như mọi
người thường nghĩ. Nói cách khác, trong điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam
thời cận-hiện đại, trải qua hai đợt chiến tranh, không xuất hiện quốc bệnh tham
nhũng mới là chuyện lạ!
Theo cách nhìn nhận của
chúng tôi, lịch sử “trùng trùng duyên khởi”, nhân này tạo ra quả nọ thành một
chuỗi diễn biến liên tục và khách quan đôi khi vượt khỏi quyền kiểm soát của
con người. Lũ “âm binh” được tạo ra lập được thành tích trong thời kỳ chiến
tranh giờ đây được sống trong thời bình, chuyển sang kinh tế thị trường, họ đã
biết đòi quyền được hưởng thụ các điều kiện vật chất, là một thực tế khách quan
cận nhân tình, trong điều kiện quản lý lỏng lẻo của bộ máy nhà nước, vừa do thiếu
tri thức khoa học lãnh đạo vừa có sự cố ý dung túng của ĐCSVN tập
trung quyền lợi cho các đảng viên đồng chí của mình, vì thế họ khó thể không
xâm phạm đến lợi ích của quần chúng nhân dân dưới dạng tham nhũng tham ô đủ kiểu.
Tuy nhiên, xét cho cùng, vẫn có thể coi tài sản tích lũy do tham nhũng trong điều
kiện chuyển đổi lịch sử khách quan như trên là gần giống với giai đoạn tích luỹ
tư bản ban đầu bằng phương thức bóc lột của chủ nghĩa tư bản man rợ
(capitalisme sauvage), tuy được chiếm hữu vô kỷ luật vì không tôn trọng khế ước
chung xã hội nhưng khách quan nó sẽ trở thành đồng vốn được tái đầu tư vào
trong xã hội, để phát triển kinh tế, mang lại lợi ích và công ăn việc làm cho
người lao động. Thời gian bóc lột man rợ của tầng lớp đặc quyền “tư sản đỏ” này
ở Việt Nam đã kéo dài ít nhất 45 năm, (từ 30.4.1975), tính ra đã đủ, và như có
người đã nói, người CS của bên thắng cuộc “không thể cứ mài mãi lịch
sử ra để mà sống”; họ phải biết khôn và biết chỗ dừng lại đúng lúc, nếu muốn được
tồn tại yên ổn, được sự chấp nhận lâu dài của người dân. Kết quả là đến
lúc này, tất cả những tài sản tích luỹ được không kể nguồn gốc của bất kỳ ai, của
con cháu cán bộ nhà nước hay của nhà doanh nghiệp, đều tất nhiên sẽ được phân
tán trở lại vào các công trình đầu tư hợp pháp được tổ chức lại trên những nền
tảng hoàn toàn mới của thể chế kinh tế-chính trị sẽ được tái cấu trúc hợp lý
hơn theo hướng tư nhân hóa các hoạt động kinh tế hầu có thể xoá dần tệ nạn tham
nhũng một cách căn cơ và lâu dài.
Từ những thực tế sinh động
và trên cơ sở nhận thức vấn đề một cách khách quan như trên, chúng tôi mạnh dạn
đề nghị thực hiện các gợi ý như sau đây, chúng tôi xin thử nêu ra chỉ với tính
cách tham khảo: Đối với một số người “lỡ” đang bị ngồi tù về tội tham nhũng, cần
động viên gia đình họ nộp bớt lại một phần tài sản cho quốc gia dưới hình thức
nhà cửa hoặc tiền mặt để chuộc tội và để được phóng thích. Số tài sản quốc gia
nhận lại được sẽ được công khai minh bạch cho dân biết, rồi giao cho một ủy ban
đặc trách của chính phủ quản lý, với người đứng đầu trong sạch, từ
đó phân bổ ra để cung ứng cho các chương trình thuộc an sinh xã hội phục vụ người
nghèo. Đối với một số “đại gia” giàu sụ nhờ tham nhũng mà vì lý do nào đó chưa
bị xử án vào tù, cũng sẽ không truy tố mà áp dụng biện pháp động viên tương tự,
tạo điều kiện để họ dùng tiền vào công việc từ thiện, cấp học bổng cho học sinh
nghèo, hoặc tài trợ, đầu tư cho các công trình phúc lợi như xây cất bệnh viện,
trường học, cầu cống, chùa chiền, trại nuôi trẻ mồ côi…. Các loại đối tượng
này, mặc dù không truy tố nhưng vẫn phải nắm . hồ sơ lý lịch tham nhũng của họ;
trong thời gian nhất định, cấm họ không được ra nước ngoài định cư để giữ lại
nguồn tiền tiêu dùng và nguồn vốn đầu tư trong nước; nếu họ không “cải hóa tự
tân” hướng thiện, tiếp tục vi phạm luật pháp để trục lợi bất chính,
lúc đó sẽ ra tay trừng trị nặng theo đúng luật mới dành cho tội phạm tham
nhũng, cũng chưa muộn.
Do hoàn cảnh đặc biệt
riêng của mỗi nước, chúng ta nhất định không rập khuôn theo phương châm “đả hổ
diệt ruồi” kiểu Trung Quốc, mà áp dụng chính sách nhân hậu “tiên lễ hậu binh”,
trước thuyết phục sau cưỡng chế, trước động viên sau mới dùng tòa án, bỏ qua lỗi
cũ và chỉ tính tội mới, chính là để ổn định nhân tâm và dung hòa lợi ích giữa
các bên, trong đó người dân cũng được lợi theo, và ta sẽ lấy quyền lợi của nhân
dân làm luật pháp tối thượng.
Vì công cuộc phòng chống
quốc bệnh tham nhũng vốn không thể tách rời khỏi việc cải chế, nên cần thiết phải
tính toán đến những bước đi ôn hòa, tiệm tiến và có tính hiện thực khả thi về mặt
chính trị, tránh trường hợp có thể gây nên tình trạng động loạn mới, dẫn đến mất
kiểm soát kiểu mới. Tại đây, xin được nhắc lại bằng cách tóm tắt ý
chính một số đề nghị đã nêu trong bản tuyên bố quan điểm của câu lạc bộ Lê Hiếu
Đằng hồi cuối tháng 10.2020 vừa qua, đó là việc cần phải gấp rút cải chế về
đất đai và về tư pháp.
Theo chúng tôi, một trong
những nội dung cải chế có tính đột phá khẩu để ổn định tình hình chính trị hiện
nay và phòng chống được tham nhũng là cần khởi đầu từ việc sửa đổi chính sách sở
hữu về đất đai, vì đây là một trong những trung tâm điểm của những vụ tham
nhũng phổ biến gây nên tình trạng động loạn xã hội uy hiếp sự tồn tại của chế độ
từ trước tới nay. Quy định “Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” ghi trong Hiến pháp 2013
(Điều 53) và trong Luật Đất đai 2003 (Điều 5) cần được xem xét sửa chữa. Đây
cũng là một ý quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ đề cập trong phiên họp Quốc
hội ngày 10.11.2020 vừa qua, nói trúng vào thực chất vấn đề mà chúng tôi hết sức
hoan nghênh ủng hộ.
Vấn đề cốt lõi thứ hai,
đó là việc tiến hành cải cách tư pháp, bằng cách để cho tư pháp độc lập với
chính quyền, vì hoạt động xét xử của tòa án phải công minh, đúng pháp luật,
không có sự can thiệp tùy tiện của Đảng thì mới chống được nạn đặc quyền và trừ
được quốc bệnh tham nhũng một cách hiệu quả. Với tình trạng thiếu tính độc lập
của ngành tư pháp như trước nay, nạn tham nhũng chẳng những không bị trừng trị
đích đáng theo đúng pháp luật mà còn phát triển ngày càng tăng nặng cả về số lượng
lẫn quy mô vụ án. Trong khi chưa tiện nói đến đa nguyên đa đảng và tam quyền phân lập một
cách rạch ròi, chúng tôi coi việc cải cách tư pháp theo hướng nêu trên như một
động thái mở đầu tương đối nhẹ nhàng của quá trình cải chế, theo hướng đi từ
cái cụ thể đến cái tổng quát, để l dần được mở rộng thêm.
Để đảm
bảo cải cách tư pháp hiệu quả, cần phát động một phong trào toàn Đảng toàn dân
thực thi hiến pháp, vì chỉ có thông qua con đường thực thi đúng các điều khoản
đã ghi trong hiến pháp, quốc gia mới được trị yên theo pháp luật và nhờ thế các
quyền công dân mới được bảo vệ, các giá trị dân chủ mới được nảy nở, điều kiện
chủ yếu để khắc phục quốc bệnh tham nhũng thúc đẩy đất nước và xã hội tiến lên.
Công
việc tiếp theo là phải tu chính hiến pháp, bầu lại Quốc hội theo thể thức thật sự dân chủ (không có nạn cơ cấu, hiệp
thương… như một thể thức xếp đặt sẵn trước), sửa lại một số điều luật
trong những luật sẵn có, soạn thêm một vài luật mới cho phù hợp với đường hướng
cải chế, đổi mới CNXH, thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa lần thứ hai cũng do
ĐCSVN lãnh đạo.
Ngoài ra, để khống chế quốc
bệnh tham nhũng, chúng tôi xin đề nghị thêm một số việc cần làm, cụ
thể như sau:
- Thực hiện đầy đủ và
trên thực chất các quyền tự do của công dân như Hiến pháp 2013 đã ghi, trong đó
có tự do ngôn luận, tự do báo chí, biểu tình, lập hội... (Điều 25 Hiến pháp).
Cho phép tư nhân ra báo và ra nhà xuất bản, hoạt động theo khuôn khổ của Luật
Báo chí và Luật Xuất bản; đặc biệt coi báo chí là “đệ tứ quyền”, một công cụ hữu
hiệu để phản biện, điều chỉnh các hành vi chính quyền, trong đó có việc phát hiện,
tố cáo và bài trừ tham nhũng, như tất cả các nước văn minh đã làm rất thành
công. Để cho báo chí thật sự được tự do, đề nghị sáp nhập Ban Tuyên giáo Trung
ương vào Bộ Thông tin-Truyền thông, biên chế nhân sự của Ban Tuyên giáo cũng được
gộp chung vào Bộ này, hình thành đội ngũ hùng hậu và chất lượng cao để tập
trung lo phát triển các sự nghiệp đích thực về văn hóa (chứ không chỉ làm những
việc tuyên truyền giả dối không còn ai tin như từ trước tới
nay…).
- Về kinh tế, phải tiếp tục
thực hiện quá trình phi quốc doanh hóa, tiến tới một nền kinh tế cơ bản là tư
nhân, để mỗi tài sản đều có chủ hẳn hoi, hầu tránh được nạn ăn cắp và lãng phí.
- Giảm hẳn một số hạng mục
dự án công trình thuộc loại chưa cấp bách (thà ít mà tốt!), trừ trường hợp đối
với trường học, bệnh viện (đang thiếu). Trước mắt cấm tuyệt một số loại công
trình vô ích như xây dựng các tượng đài, cổng chào… ở các địa phương tỉnh, huyện,
xã… Việc làm này vừa để tránh nạn tham nhũng xen vào xà xẻo của công, vừa để tập
trung vào quỹ lương nhằm tăng lương đáng kể cho đội ngũ cán bộ công chức từ
nhân viên cấp phường xã đến chủ tịch nước.... Tăng lương là một trong những giải
pháp cơ bản nhất mà mọi quốc gia văn minh đều đã áp dụng để nâng cao tinh thần
trách nhiệm của người công chức nhà nước, góp phần hạn chế được nạn tham nhũng.
Đối lại, hạn chế được quốc bệnh tham nhũng thì ngân sách nhà nước được bảo
vệ, quỹ lương cũng sẽ được tăng lên, nhờ vậy mà việc tăng lương phổ biến cho
cán bộ công nhân viên là có tính khả thi.
- Tùy
theo tình hình thực tế cho phép , giải thể dần dưới hình thức bán lại cho tư
nhân những tổ chức kinh doanh thuộc các cơ quan đơn vị của Bộ Quốc
Phòng và Bộ Công An, để giữ được tính khách quan và bình đẳng giửa các thành phần
kinh tế . Ngành Công an chỉ chuyên lo trật tự an ninh , ngành Quốc
Phòng chỉ chuyên lo Bảo vệ tổ quốc.
- Mở các đợt sinh hoạt
chính trị rộng rãi từ các cơ quan, trường học xuống tận tổ dân phố các phường
xã trên toàn quốc về phòng chống tham nhũng.
Giảm bớt tối đa các khẩu
hiệu /bích chương/ pano vô ích tốn kém, thay vào đó là khẩu hiệu
“ Toàn Đảng toàn dân kiên quyết phòng chống tham nhũng” ….dán các
nơi công cộng , trong phòng làm việc thuộc các cơ quan Đảng , nhà nước
.
Ngày 27 tháng 11 năm 2020
Trân trọng
Lê Thân
(Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng)
No comments:
Post a Comment