Giáo
Hoàng Francis: Hãy để nỗi đau của tha nhân chạm đến mình
Pope
Francis
Người dịch : Hiền
Minh - Luật Khoa
29/11/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/11/giao-hoang-francis-hay-de-noi-dau-cua-tha-nhan-cham-den-minh/
Đức Giáo hoàng Francis là người đứng đầu Giáo hội
Công giáo toàn cầu. Bài viết này được dịch từ bài đăng trên New York Times ngày 26/11/2020, trích từ cuốn sách mang tên “Let Us Dream:
The Path to a Better Future” (tạm dịch: Hãy mơ ước: Đường đến một tương lai tốt
đẹp hơn), do ông viết cùng với Austen Ivereigh.
Đức Giáo hoàng Francis. Ảnh: Alessandra Tarantino/AP
Photo
***
Năm qua có thật nhiều đổi
thay, tâm trí tôi phủ đầy hình ảnh mọi người. Tôi nghĩ về mọi người, cầu nguyện
cho mọi người, thỉnh thoảng khóc cùng mọi người. Những người có tên và dung mạo,
những người đã chết mà không kịp nói lời từ giã với người thân, những gia đình
trong cơn hoạn nạn, thậm chí đói ăn, vì không còn việc làm nữa.
Thỉnh thoảng, nếu bạn
nhìn các vấn đề một cách vĩ mô, bạn có thể thấy bất lực: có quá nhiều nơi trên
thế giới chìm trong những xung đột bất tận, có quá nhiều khổ đau, có quá nhiều
nhu cầu. Có một cách nhìn khác khiến tôi thấy ổn thỏa hơn, đó là tập trung vào
những hoàn cảnh cụ thể. Khi đó, bạn nhìn thấy niềm khát khao sống và tình yêu
hiện lên trên gương mặt của từng người. Bạn nhìn thấy hy vọng lấp lánh trong
câu chuyện của mỗi dân tộc, câu chuyện của những sự tranh đấu hàng ngày, của những
người hy sinh bản thân để cứu người khác. Nhờ vậy, thay vì xâm chiếm tâm can bạn,
nó gọi mời bạn suy tư và đáp lại với niềm hy vọng.
Đây là những khoảnh khắc
đủ chín cho những sự thay đổi và biến chuyển trong cuộc đời. Mỗi chúng ta đều
có những điểm dừng của mình, hoặc nếu ta chưa từng trải qua thì chắc chắn nó sẽ
xuất hiện một ngày nào đó: ốm đau, thất bại trong hôn nhân hay công việc, hay
những lần tuyệt vọng hoặc bị phản bội. Cũng như thời gian phải cách ly do
COVID-19, những thời điểm đó khiến ta thấy căng thẳng, tạo ra một cuộc khủng hoảng
phơi bày những gì có trong tâm trí chúng ta.
Trong cách mà mỗi người đối
mặt với đại dịch, trong từng điểm dừng cá nhân đó, điều bộc lộ ra là điều cần
phải thay đổi: sự thiếu thốn tự do nội tại, những thần tượng mà chúng ta phụng
thờ, những chủ nghĩa mà chúng ta theo đuổi, những mối quan hệ mà chúng ta xao
nhãng.
Minh họa: Najeebah Al-Ghadban/The New York Times.
Năm 21 tuổi, tôi lâm bệnh
nặng. Đó là lần đầu tiên tôi trải nghiệm giới hạn, nỗi đau, và sự cô đơn trong
đời. Biến cố ấy thay đổi cách tôi nhìn cuộc đời. Trong hàng tháng trời, tôi
không biết mình là ai, không biết tôi sẽ sống hay chết. Các bác sĩ không biết
liệu tôi có vượt qua nổi hay không. Tôi nhớ mình ôm lấy mẹ và nói, “nếu con sắp
chết rồi thì cứ nói cho con biết đi”. Lúc đó, tôi đang là chủng sinh năm thứ
hai ở chủng viện Buenos Aires.
Tôi vẫn nhớ ngày đó: 13
tháng Tám năm 1957. Người huynh trưởng đưa tôi đến bệnh viện khi nhận ra rằng bệnh
của tôi không phải là loại cảm cúm có thể chữa bằng aspirin. Họ ngay lập tức lấy
từ phổi tôi ra một lít rưỡi nước, và tôi nằm đó chống chọi với cuộc đời mình.
Tháng Mười một năm đó họ phẫu thuật để cắt bỏ thùy trên bên phải của một trong
hai lá phổi. Tôi nghĩ mình hiểu được phần nào cảm giác vật lộn trong từng hơi
thở của những người nhiễm COVID-19 phải thở bằng máy.
Tôi đặc biệt nhớ hai y tá
trong thời gian đó. Một người là y tá cao cấp, một nữ tu dòng Đaminh (Dominican
Order) từng là giáo viên ở Athens trước khi được gửi sang Buenos Aires. Sau
này, tôi được biết rằng, sau khi vị bác sĩ khám cho tôi rời đi, bà ấy đã bảo
các y tá tăng gấp đôi liều lượng thuốc – căn bản là penicillin và streptomycin
– vì kinh nghiệm của bà mách bảo rằng tôi sắp chết. Sơ Cornelia Caraglio đã cứu
mạng tôi. Nhờ vào sự tương tác thường xuyên của bà với người bệnh, bà thấu hiểu
điều họ cần hơn các bác sĩ, và đã có lòng quả cảm để hành động theo hiểu biết của
mình.
Một y tá khác, Micaela,
cũng hành xử tương tự khi tôi phải trải qua một cơn đau khủng khiếp. Bà ấy bí mật
kê thêm thuốc giảm đau cho tôi ngoài giờ uống thuốc định kỳ. Cornelia và
Micaela giờ đã về trời, nhưng tôi sẽ luôn mắc nợ họ. Họ đã tranh đấu đến cùng
vì tôi, cho đến khi tôi hoàn toàn hồi phục. Họ dạy tôi cách vận dụng khoa học,
nhưng cũng cần biết khi nào phải thoát ra để đáp ứng những nhu cầu đặc thù. Cơn
đau bệnh trầm trọng mà tôi trải qua dạy tôi biết dựa vào lòng tốt và sự khôn
ngoan của người khác.
Tôi đã luôn nghĩ về chủ đề
giúp đỡ tha nhân trong những tháng vừa qua. Trong thời kỳ cách ly, tôi thường cầu
nguyện cho những người đã tìm mọi phương cách để cứu sống người khác. Quá nhiều
y tá, bác sĩ và điều dưỡng viên đã làm điều đó bằng tình yêu của mình, cùng với
các giáo sĩ, cũng như mọi người với tinh thần phụng sự khác, bất kể là có tôn
giáo hay không. Chúng ta đáp lại tình yêu thương đó bằng lòng cảm thông và trân
trọng đối với những người như họ.
Bất kể họ có biết hay
không, lựa chọn của họ chứng thực một niềm tin: rằng sống một cuộc đời để phục
vụ tha nhân, dù ngắn ngủi, thì tốt hơn là khước từ lời kêu gọi phụng sự đó cho
dù có sống lâu. Đó là lý do vì sao, ở nhiều quốc gia, người ta đứng ở cửa sổ hoặc
trên bậc thềm nhà để tán dương họ với lòng biết ơn và niềm kính phục. Họ là những
vị thánh nhà bên, những người đã thức tỉnh điều gì đó trong tim chúng ta, đã một
lần nữa xác tín điều chúng ta hằng cầu nguyện.
Người dân vỗ tay
tán dương những nhân viên y tế từ ban công nhà mình. Ảnh chụp ở Orense, Tây Ban
Nha ngày 29/3/2020. Phong trào mang tên “Clap for Carers” lan rộng khắp thế giới
vào thời điểm đó. Ảnh: EPA/Brais Lorenzo.
Họ là những kháng thể chống
lại virus của sự vô cảm. Họ nhắc chúng ta nhớ rằng cuộc đời ta là một tặng phẩm,
và chúng ta lớn lên bằng cách cho đi, không phải là khư khư giữ cho bản thân
mình, mà là dâng hiến bản thân để phụng sự.
Chính quyền tại các quốc
gia, chỉ trừ một số trường hợp, cũng đã có những nỗ lực tốt khi đặt phúc lợi của
người dân lên hàng đầu và hành động quyết đoán để bảo vệ sức khoẻ và mạng sống
của mọi người. Cũng có những trường hợp ngoại lệ mà chính quyền ngó lơ các bằng
chứng nhức nhối về số người chết ngày càng tăng, với những hậu quả nghiêm trọng
không thể chối bỏ. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đã hành xử có trách nhiệm,
thi hành những biện pháp nghiêm cẩn để kiểm soát đại dịch.
Vậy mà nhiều nhóm đã phản
kháng, từ chối giữ khoảng cách an toàn, biểu tình chống lại những lệnh cấm đi lại
– như thể là các biện pháp bắt buộc thi hành để đảm bảo an toàn cho mọi người
này là xâm phạm quyền tự chủ hay tự do cá nhân. Nếu ta cùng nhìn vào lợi ích
chung, nó sẽ lớn hơn lợi ích của từng cá thể. Điều đó có nghĩa là coi trọng tất
cả mọi người và cố gắng đáp ứng nhu cầu của những người kém may mắn nhất.
Quá dễ dàng để vài người
đưa một ý tưởng, biến ý tưởng đó thành một ý thức hệ và dùng nó làm lăng kính để
đánh giá mọi thứ. Lăng kính đó trong trường hợp này là tự do cá nhân.
Cuộc khủng hoảng mà virus
corona tạo ra có vẻ đặc biệt, vì nó ảnh hưởng đến hầu như toàn nhân loại. Nhưng
nó đặc biệt chỉ vì chúng ta nhìn thấy được nó. Còn có một nghìn cuộc khủng hoảng
khác tồi tệ không kém, nhưng ở đủ xa để nhiều người trong chúng ta cư xử như thể
chúng không hề tồn tại. Chẳng hạn, thử nghĩ về các cuộc chiến tranh đang lan
tràn khắp nơi trên thế giới; việc sản xuất và buôn bán vũ khí; hoặc việc hàng
trăm nghìn người tị nạn phải bỏ chạy khỏi sự đói nghèo và thiếu thốn cơ hội; hoặc
biến đổi khí hậu. Những thảm kịch này nghe có vẻ xa xôi, tương tự như một phần
của tin tức hàng ngày không đến được với chúng ta, không khiến chúng ta thay đổi
các kế hoạch và ưu tiên của mình. Nhưng giống như cuộc khủng hoảng COVID-19,
chúng cũng tác động đến toàn nhân loại.
Thử nhìn chúng ta mà xem:
Chúng ta đeo khẩu trang để bảo vệ mình và người khác khỏi một con virus ta
không thể nhìn thấy. Nhưng còn những con virus vô hình nguy hiểm khác thì sao?
Làm sao ta đối phó được với những cơn đại dịch ngầm ẩn trong thế giới này, những
cơn đại dịch của đói nghèo, bạo lực, và biến đổi khí hậu?
Nếu có cách nào để thoát
khỏi cuộc khủng hoảng này và trở nên bớt ích kỷ hơn, ta phải để cho nỗi đau của
tha nhân chạm được đến mình. Tôi đồng cảm với một câu trong tác phẩm Hyperrion
[*] của Friedrich Hölderlin, “Nơi nào có hiểm nguy, nơi đó cũng sẽ phát ra năng
lượng cứu rỗi” (Where the danger is, also grows the saving power.) Những mối đe
dọa trong một cơn khủng hoảng không bao giờ là tất cả; luôn có một cách để
thoát ra. Đó là sự kỳ diệu của lịch sử nhân loại: luôn có cách thoát khỏi diệt
vong. Nơi cần hành động nằm ngay trong chính mối hiểm nguy; đó là nơi cánh cửa
mở ra.
Đây là một khoảnh khắc để
mơ xa, để nghĩ lại về những ưu tiên của chúng ta – điều ta coi trọng, điều ta
muốn, điều ta kiếm tìm – và để cam kết hành động vì mơ ước đó trong chính đời sống
hàng ngày.
Thiên Chúa yêu cầu chúng
ta tạo ra những điều mới mẻ. Ta không thể quay lại sự an toàn giả tạo của hệ thống
chính trị và kinh tế trước đại dịch được nữa. Chúng ta cần những nền kinh tế có
thể giúp tất cả mọi người tiếp cận được những tặng phẩm của tạo hóa, đến những
nhu cầu căn bản của cuộc sống: đất đai, nhà ở, và công việc. Chúng ta cần những
hệ thống chính trị dung hợp người nghèo và đối thoại được với những người
nghèo, những người bị loại trừ, những người yếu đuối; để họ có thể góp tiếng
nói trong những quyết sách ảnh hưởng đến cuộc đời họ. Chúng ta có thể chậm lại,
lưu giữ, và thiết kế những phương cách tốt hơn để chung sống trên trái đất này.
Đại dịch đã phơi bày một
nghịch lý rằng càng kết nối với nhau, chúng ta càng lìa xa nhau. Cơn sốt của chủ
nghĩa tiêu dùng phá huỷ những mối dây thân hữu. Nó khiến chúng ta tập trung vào
việc bảo tồn chính mình, khiến chúng ta lo lắng. Chính trị dân túy lợi dụng những
nỗi sợ hãi này để tìm kiếm quyền lực thống trị toàn xã hội và khiến cho những nỗi
sợ hãi ấy tệ hơn. Thật khó để xây dựng một văn hoá của sự gặp gỡ, nơi ta gặp
nhau như những con người với đầy đủ nhân phẩm, khi chúng ta đang có một nền văn
hoá tạm bợ cho rằng sự tồn vong của kẻ khác: những người già, người thất nghiệp,
người khuyết tật và những sinh mệnh chưa chào đời – chẳng có nghĩa lý gì đối với
cuộc đời của chúng ta.
Để vượt qua cuộc khủng hoảng
này, chúng ta cần phục hồi nhận thức rằng: là con người, chúng ta có chung định
mệnh. Cơn đại dịch đã nhắc ta nhớ rằng không ai tự cứu thoát được mình. Điều nối
kết chúng ta lại với nhau là điều ta thường gọi là sự kết hiệp (solidarity). Sự
kết hiệp cũng quan trọng như những hành động hào hiệp, nhưng rộng hơn thế. Đó
là lời kêu gọi trân trọng một thực tại rằng chúng ta được kết nối bằng mối dây
của sự trao đổi. Từ nền tảng vững chắc này, ta có thể xây dựng một tương lai tốt
hơn, khác hơn, cho loài người.
***
[*] Hyperion là
cuốn tiểu thuyết duy nhất của nhà thơ người Đức Friedrich Hölderlin
(1770-1843). Thông qua những bức thư của Hyperion gửi cho người yêu và cho bạn
mình, tác phẩm kể về giai đoạn tuyệt vọng nhất của người được xem là thần ánh
sáng trong thần thoại Hy Lạp. Đó là lúc Hyperion thất bại trong công cuộc giải
phóng Hy Lạp và tan vỡ vì người mình yêu qua đời. Tác phẩm được ca ngợi vì giá
trị triết học, tính nhạc trong ngôn ngữ, và khả năng biểu đạt đầy hình tượng.
No comments:
Post a Comment