Bản
hiến pháp quan trọng, những con người thực thi nó cũng quan trọng không kém
Lê Nguyễn Duy Hậu - Luật
Khoa
29/11/2020
.
Tổng thống Donald Trump đã gây được ảnh hưởng lớn tới
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ với việc bổ nhiệm ba thẩm phán mới chỉ trong vòng bốn
năm. Ảnh: USA Today
***
Giới
thiệu chuyên đề: Hiến pháp và Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ
Kỳ 1: Quyền
tài phán tư pháp và quyết định của Chánh án Marshall
Kỳ 2: Phán
quyết Dred Scott – trang sử buồn của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ
Kỳ 3: Thời
đại Lochner, “chính phủ ông tòa” và khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ (lại) là “kẻ xấu”
Kỳ 4: Tối
cao Pháp viện và vai trò người thúc đẩy quyền tự do
Tôi đã từng hy vọng có thể
kết thúc loạt bài viết về Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ bằng một đánh giá cơ quan
này ở thời kỳ hiện đại. Tuy nhiên, với việc chỉ trong một nhiệm kỳ tổng thống của
Donald Trump có đến ba thẩm phán mới, trẻ trung và có người lại có ít kinh nghiệm
tư pháp, đã khiến việc đánh giá trở nên khinh suất. Trái lại, những gì đang diễn
ra trên chính trường Mỹ sau bầu cử, cùng những cách hiểu sai lầm về Tối cao
Pháp viện như một định chế chính trị và các thẩm phán như những thành viên của
đảng phái, khiến cho tôi cảm thấy cần phải kết thúc loạt bài bằng việc đánh giá
lại về vị trí của tòa án này trong bộ máy chính trị Mỹ. Tôi muốn cố gắng giải
thích cho hai vấn đề lớn như sau.
Vấn đề 1: Tối cao
Pháp viện sẽ ra phán quyết theo đúng tư tưởng đảng phái?
Chúng ta có thể bắt đầu
bài viết hôm nay bằng một câu
hỏi đã được bỏ ngỏ từ cuối kỳ trước: Nếu như Tối cao Pháp viện là một
định chế chính trị và thẩm phán là những chính khách, vậy thì nguyên tắc tam
quyền phân lập còn ý nghĩa gì nữa?
Những ngày này, nhiều người
ủng hộ ông Trump đã lưu truyền một thông tin, một niềm hy vọng rằng kết quả bầu
cử rồi sẽ được đưa lên cho Tối cao Pháp viện phân xử, và với một đa số 6 thẩm
phán “bảo thủ”, ông Trump sẽ tái đắc cử. Họ cũng dẫn chứng vụ kiện Bush v. Gore một
cách sai lệch như một cách để nuôi dưỡng niềm tin đó.
Như đã có dịp trình bày
trước đây, nếu thật sự Tối cao Pháp viện là nơi sẽ phân định thắng thua trong một
cuộc bầu cử, thì đó sẽ là một bước lùi lớn cho nền dân chủ Hoa Kỳ. Nhưng nếu Tối
cao Pháp viện lại phân định thắng thua chỉ dựa trên quan điểm chính trị của thẩm
phán, thì xem như nền tư pháp của Hoa Kỳ đã chết. Kịch bản như vậy không được
phép xảy ra.
Nhìn lại lịch sử án lệ
Hoa Kỳ, bản
án Bush v. Gore năm 2000 là một trong những bản án tệ nhất của Tối cao
Pháp viện. Nó gây tranh cãi đến mức mà một thẩm phán Tối cao Pháp viện lúc bấy
giờ là David Souter đã nghĩ đến chuyện
từ chức, và theo nhà báo Jeffrey Toobin thì ông chảy nước mắt mỗi lần nghĩ
đến phán quyết đó. Phán quyết Bush v. Gore còn gây tranh cãi
khi chính người chắp bút cho bản án đó là Thẩm phán Sandra Day O’Connor đã phải
thêm vào một câu rằng vì tính chất vô tiền khoáng hậu của tình huống mà những
lý lẽ pháp lý trong Bush v. Gore chỉ
được áp dụng một lần. Điều này có nghĩa là bản án Bush v. Gore được
chính tác giả của nó khuyến cáo không tái sử dụng như một loại án lệ hiến pháp
thông thường.
Nói như vậy để thấy rằng
một thẩm phán có tự trọng đúng nghĩa, trừ khi có một luận cứ pháp lý rõ ràng với
những bằng chứng không thể chối cãi, sẽ không cho phép bản thân đem tư tưởng
chính trị vào trong bản án. Trên thực tế thì tuy báo giới thường nói Tối cao
Pháp viện có phe “cấp tiến” và “bảo thủ”, phần lớn các bản án của tòa này có kết
quả đồng thuận, hoặc tuyệt đại đa số tán thành. Chỉ khi nào một vấn đề pháp lý
quá gây tranh cãi thì người ta mới thấy được sự chia rẽ về quan điểm. Nhưng
ngay cả như vậy, không có gì đảm bảo là thẩm phán “bảo thủ” sẽ luôn bỏ phiếu
cho phe Cộng hòa và thẩm phán “cấp tiến” sẽ luôn bỏ phiếu cho phe Dân chủ.
Những bản án gần đây cho
thấy điều đó. Đơn cử như các bản án liên quan đến Obamacare – hay Đạo luật Chăm
sóc Sức khỏe Hợp túi tiền của Tổng thống Barack Obama. Theo đó, rất nhiều lần
các thẩm phán phe “cấp tiến” đồng
tình với các thẩm phán phe “bảo thủ”, và ngược lại. Lần tranh tụng gần
đây nhất trong vụ California
v. Texas, giới quan sát cho rằng hai thẩm phán “bảo thủ” là Chánh án
John Roberts và Thẩm phán Kavanaugh có thể sẽ cùng chia
sẻ ý kiến với ba thẩm phán “cấp tiến” để giúp cho Obamacare tồn tại.
Có phải vì Roberts và Kavanaugh đồng tình về mặt chính trị với Obamacare không?
Không phải. Đơn giản vì họ không muốn thay Quốc hội xoá bỏ một đạo luật, không
thông qua con đường dân chủ. Chính những bản án như vậy sẽ lại tái khẳng định
vai trò độc lập của Tối cao Pháp viện, bất chấp việc các thẩm phán có thể sẽ trở
thành kẻ thù của phe này hay phe kia. Cho nên mới có chuyện Thẩm phán Matthew
W. Brann, một thẩm phán tòa liên bang tuy do Obama bổ nhiệm nhưng lại cực kỳ bảo
thủ, đã thẳng
tay loại bỏ đơn kiện của ủy ban tranh cử của Trump vì lý do thiếu chứng
cứ. Và tương tự là cách bộ ba thẩm phán của Tòa Phúc thẩm số Ba, trong đó một
người được chính Trump bổ nhiệm và hai người do Tổng thống G. W. Bush bổ nhiệm,
cũng thẳng
tay từ chối đơn kháng cáo của Trump và mạnh dạn tuyên bố rằng “cử tri
chứ không phải luật sư mới có quyền quyết định kết quả bầu cử”.
Để chốt lại vấn đề này,
có thể sử dụng lại một đoạn trong phiên điều trần của Thẩm phán Amy Coney
Barrett. Khi được hỏi rằng bà có thể để cho quan điểm tôn giáo hoặc chính trị của
mình chi phối phán quyết không, bà Barrett trả
lời rằng nếu thẩm phán luôn thích các phán quyết của mình, điều đó có
nghĩa là họ đang để cho thiên kiến chính trị chi phối. Tất nhiên, thực tế thế
nào thì chúng ta còn phải chờ đợi, nhưng ít nhất đó là điều mà một thẩm phán cần
phải tâm niệm trong lòng.
Chánh án John
Roberts (trái) cùng các thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ tham dự phiên báo
cáo Thông điệp Liên bang của Tổng thống Donald Trump tại Quốc hội ngày
4/2/2020. Ảnh: AP.
Vấn đề 2: Tối cao
Pháp viện sẽ vô dụng nếu không có được sự tôn trọng của các nhánh quyền lực
khác?
Một sinh viên luật Việt
Nam có quan tâm đến chính trị nước ngoài sẽ mạnh dạn nói rằng nước Mỹ mạnh mẽ
là nhờ tam quyền phân lập, nhờ bản hiến pháp rõ ràng trao quyền cho Tối cao
Pháp viện để kiềm chế hai nhánh quyền lực còn lại. Tuy nhiên, đó là một quan
sát đầy lý tưởng nhưng lại thiếu thực tế.
Đã nhiều lần chúng ta thảo
luận với nhau và thấy rằng Alexander Hamilton đã đúng khi nói trong Bài số 78 của
Federalist: “Tòa án chẳng có ảnh hưởng gì lên thanh gươm hoặc túi tiền, lên QUYỀN
LỰC hoặc Ý CHÍ, mà chỉ đơn thuần có trong tay những phán quyết” (“no
influence over either the sword or the purse,… neither FORCE nor WILL, but
merely judgment.”). Tam quyền phân lập chỉ là một khẩu hiệu và phán quyết của
tòa chỉ là một tờ giấy nếu như nó không được các thiết chế khác tôn trọng và tự
nguyện thi hành. Ngay cả khi Marshall khéo léo xác quyết được quyền tài phán hiến
pháp sau vụ Marbury v. Madison, một tổng thống tham vọng hoàn toàn
có thể tước bỏ nó bằng cách ngó lơ phán quyết của tòa. Vậy thì điều gì đã giữ
cho vị thế bấp bênh đó của Tối cao Pháp viện tồn tại cho đến ngày nay?
Rất có thể, sức mạnh của
Hiến pháp Mỹ nằm ở chỗ nó thừa hưởng một nền văn hoá dân chủ, coi trọng những
thứ luật lệ bất thành văn – chẳng hạn như tôn trọng phán quyết của tòa, khiêm
nhường, kiềm chế, phân định rõ chính trị và pháp lý. Hãy thử lắng nghe một câu
chuyện sau đây về hai nhân vật ta đã quen thuộc từ kỳ trước là Chánh án Warren
và Tổng thống Eisenhower.
Trong một
cuộc phỏng vấn sau khi hết nhiệm kỳ, Eisenhower từng chia sẻ rằng ông
hối tiếc nhất là việc đã bổ nhiệm “tên chó đẻ Warren” vào ghế chánh án Tối cao
Pháp viện, khiến cho những bản án cấp tiến nở rộ và gây mất lòng cho phe bảo thủ.
Tuy nhiên, nếu như thật sự Eisenhower chán ghét các bản án của Warren, thì đó lại
càng minh chứng cho nhận xét Eisenhower là một tổng thống đàng hoàng, dân chủ.
Mặc dù không hài lòng với phán quyết Brown, Eisenhower vẫn chấp nhận tuân thủ bản
án đó và tham gia đưa quân đội xuống Arkansas để thực thi bản án, bất chấp việc
các cử tri bảo thủ ở đây sẽ bực tức với ông. Cũng tương tự như vậy, chưa bao giờ
Eisenhower bất tuân một bản án nào của Tối cao Pháp viện, và chưa bao giờ
Eisenhower lớn tiếng bình luận về một bản án nào trong giai đoạn ông là tổng thống.
Điểm đặc biệt của Eisenhower chính là việc ông cũng sẵn sàng bổ nhiệm một thẩm
phán cấp tiến là Brennan, dù biết rằng quan điểm của Brennan sẽ trái ngược với
ông. Không luật lệ nào bắt ép Eisenhower làm vậy, cũng như không có gì cấm các
thẩm phán có thiên kiến chính trị ngoài sự kiềm chế của văn hoá và lòng tự trọng.
Trên cơ sở đó, Chánh án
John Roberts đã từng rất
tức giận khi Tổng thống Trump công khai gọi một nửa Tối cao Pháp viện
là các “thẩm phán của Obama”. Ông xem đó như một sự xúc phạm không chỉ cho sự độc
lập của tòa án, mà còn cho nền văn hoá dân chủ, làm việc cùng nhau của nước Mỹ.
Cố Thẩm phán Antonin Scalia là một người bảo thủ đến tận xương tủy, nhưng mỗi dịp
năm mới, ông đều khiêu
vũ với một thẩm phán mà ông xem là người bạn thân. Đó không phải là
Clarence Thomas hay Amy Coney Barrett, mà là cố Thẩm phán Ruth Bader Ginsburg –
vị thẩm phán cấp tiến đến tận máu thịt.
Đó chính là nét đẹp của
văn hóa dân chủ Hoa Kỳ và là thứ thúc đẩy đất nước này tiến lên. Nước Mỹ sẽ thất
bại nếu một tổng thống chọn phớt lờ truyền thống chính trị và văn hoá dân chủ,
xem tòa án như một công cụ chính trị, xem thẩm phán là những đảng viên và cùng
nhau cấu kết. Thật may mắn là cho đến nay điều đó vẫn chưa xảy ra.
Hai thẩm phán Tối
cao Pháp viện Ruth Bader Ginsburg và Antonin Scalia cùng xuất hiện trên sân khấu
một nhà hát năm 2009. Ảnh: Getty Images.
Từ Tối cao Pháp viện,
nghĩ về một bản hiến pháp dân chủ và quá trình dân chủ hoá
Khi tôi bắt đầu viết loạt
bài này, ngoài việc cung cấp những thông tin mà mình biết cho độc giả về một cơ
quan thú vị tại nước Mỹ, tôi cũng nuôi một tham vọng rằng độc giả sẽ rút ra được
một bài học nào đó cho tiến trình dân chủ hóa trong tương lai của Việt
Nam.
Với bản thân tôi, điều mà
tôi cho là quý báu nhất từ việc theo dõi sự phát triển và những thăng trầm của
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ chính là việc tôi đã nhìn tòa án này không phải như một
thiết chế vô tri vô giác được Hiến pháp Mỹ minh định, mà là một tập hợp của những
con người lịch sử.
Hiến pháp Mỹ đã không cho
Marshall một câu trả lời thỏa đáng khi ông phán xử Marbury. Taney đã gửi gắm rất
nhiều hy vọng trong phán quyết Dred Scott. Owen Roberts có lẽ đã mất ngủ rất
nhiều đêm khi ông quyết định đổi phe nhằm cứu lấy bộ chín trong thời kỳ
Lochner. Warren kiên quyết với lý tưởng của ông, nhưng cũng phải thầm cảm ơn sự
chính trực của Eisenhower. Souter cuối cùng đã không từ chức vì hiểu rằng pháp
luật không phải là chìa khóa vạn năng và thẩm phán không phải là thánh nhân.
John Roberts tức giận với vị tổng thống thứ 45. Scalia tranh đấu với Ginsburg
trên tòa, nhưng lại khiêu vũ với bà khi năm mới đến.
Tất cả, tuy có những quan
điểm chính trị khác nhau, chia sẻ một mục tiêu rằng thông qua việc phán xử của
mình, pháp luật sẽ sáng tỏ và xã hội sẽ tốt lên. Một tòa án phục vụ cho nền dân
chủ hiệu quả nhất là một tòa án có những thẩm phán đúng nghĩa (chứ không để vai
trò hoặc niềm tin chính trị chi phối) và một văn hoá pháp lý coi trọng sự tự kiềm
chế quyền lực của bản thân. Trong con đường dân chủ hóa đất nước, một bản hiến
pháp và thể chế rập khuôn sẽ không có ý nghĩa gì nếu không có những con người
như vậy. Đó là những con người không chỉ tuyên xưng dân chủ, xem dân chủ như một
cái mác, mà còn phải thống nhất trong tư tưởng và hành động của mình nhằm hướng
đến dân chủ, cho dù họ có thể sai lầm, cho dù họ có thể bị lung lay bởi những
cám dỗ chính trị.
Chỉ khi nào có những con
người như vậy thì một xã hội mới thực sự trở nên dân chủ.
### Hết ###
No comments:
Post a Comment