Lý
do gì khiến Việt Nam đang vất vả đối phó với dịch COVID-19 hiện nay?
Zachary
Abuza -
The
Diplomat
DCVOnline dịch thuật
POSTED ON JUNE
17, 2021
Từng được coi là tiêu chuẩn vàng trong việc đối phó
với COVID-19, Việt Nam hiện đang vất vả chống chọi với tình trạng lây nhiễm
đang tăng và chiến dịch chủng ngừa không hiệu quả.
https://thediplomat.com/wp-content/uploads/2021/06/sizes/td-story-s-2/thediplomat-2021-06-15-1.jpg
Phật tử đeo mặt nạ
viếng chùa Vạn Phật ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam vào Tết Trung thu, ngày
31 tháng 8 năm 2020. Nguồn: Depositphotos
Việt Nam hiện đang ở trong tình thế khó khăn bất
thường, với sự gia
tăng số người nhiễm COVID-19 mới và tỷ lệ tiêm chủng thấp nhất trong tất
cả các nước Đông Nam Á. Cách đây vài
tháng, Việt Nam đã được coi là tiêu chuẩn vàng về cách đối phó với COVID-19. Việt
Nam có tỷ
lệ số người lây nhiễm và chết thấp nhất thế giới, mặc dù có đường biên
giới dài 1.300 km với Trung Hoa và thương mại song phương phát triển mạnh mẽ. Kết quả là, bất chấp lo
ngại về sự suy thoái kinh tế lớn hơn, Việt Nam là nền kinh tế duy nhất ở
Đông Nam Á có mức tăng trưởng tích cực vào năm 2020, mặc dù chỉ được 2%, khác
xa so với mức tăng trưởng 6-7% mà nó đã có trong 5 năm qua.
Nhiều nghiên cứu đã trình bày chi tiết lý do
thành công của Việt Nam, nhưng đáng đề cập đến một vài nguyên nhân ở đây. Có lẽ
hệ thống chính trị của Việt Nam, được mô phỏng gần như của Trung Hoa, đã mang lại
cho giới lãnh đạo Việt Nam những hiểu biết sâu sắc. Các ủy viên Bộ Chính trị Việt
Nam cũng bị ảnh hưởng đáng kể khi những người đồng cấp Trung Hoa họp khẩn vào
giữa Tết Nguyên đán. Các hoạt
động tình báo mạng của Việt Nam cũng có thể đã cấp cho giới lãnh đạo
thêm thông tin tình báo về mức dộ của vấn đề. Nếu không có gì khác, thì sự nghi
ngờ thâm căn cố đế đối với Trung Hoa và sự hiểu biết về cách hoạt động của Bắc
Kinh, đã định hình phản ứng của Hà Nội.
Bất chấp điều đó, Hà Nội đã hành động một cách
nhanh nhẩu đáng kinh ngạc. Phong tỏa biên giới, áp đặt mạnh mẽ việc cách ly
trong các trại lính. Nhưng chiến dịch thông tin cho công chúng rất bùi tai và
đúng với thông điệp. Và chính phủ đã có thể khai thác chủ nghĩa dân tộc của quần
chúng, và chuyển sang những gì có vẻ giống như một cuộc
cổ động thời chiến, phổ biến khắp nơi những bích chương và loa tuyên
truyền chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Nhưng điều thực sự có ích về mặt nào đó là một
hệ thống y tế công cộng rất tốt, tập trung vào việc phòng ngừa chứ không phải
chữa bệnh tốn kém. Hệ thống y tế công cộng của Việt Nam đã có nhiều năm kinh
nghiệm trong việc đối phó với SARS, bệnh cúm gia cầm và các loại virus lây truyền
từ động vật sang người khác, và ban lãnh đạo y tế công cộng đã đưa ra các
thể chế và quy trình hiệu quả, kiểm dịch và truy tìm người đã tiếp xúc với
bệnh nhân nghiêm ngặt.
Ban lãnh đạo Việt Nam đã rất tự hào về phản ứng
thực dụng, phi chính trị hóa và rõ ràng đã đạt được tính chính danh với quần
chúng vì những thành công của họ.
Tuy nhiên, hôm nay, Việt Nam đang gửi tin nhắn
xin tiền mua thuốc chủng ngừa, và có tỷ lệ tiêm chủng đứng dưới cả hai quốc gia
nghèo khó, Lào và Myanmar, và Myanmar còn đang trong tình trạng bất an và nội
chiến. Với tốc độ tiêm chủng
hiện nay, Việt Nam sẽ không thể có miễn dịch cộng đồng trong mười năm.
Nguyên nhân nào đã gây ra sự đảo ngược này? Không nghi ngờ gì nữa, Việt Nam là nạn
nhân của chính thành công của mình. Với tỷ lệ lây nhiễm thấp, Việt
Nam đã không chuẩn bị mua thuốc chủng ngừa với bất kỳ sự khẩn cấp nào. Họ đã ký
hợp đồng mua thuốc chủng ngừa, nhưng đã làm như vậy tương đối quá muộn với những
nước khác và đứng tuốt phía sau trong hàng đợi.
Với các biến thể mới và nền kinh tế đang trong
giai đoạn mở cửa trở lại, một nửa trong số 8.000 người nhiễm COVID-19 của Việt
Nam — nhìn chung vẫn là một con số rất thấp — đã có kể từ tháng Tư. Những đợt
bùng phát mới này đã thúc đẩy chính phủ ký hợp đồng vào đầu tháng 6 để mua 31
triệu liều thuốc chủng ngừa Pfizer vào cuối năm; 38,9 triệu liều AstraZeneca từ
COVAX (viện trợ), và mua thêm 30 triệu liều; và đạt được thỏa thuận mua 50-150
triệu liều Sputnik V của Russia. Ngoài ra, Việt Nam đang đàm phán với Medigen của
Đài Loan để mua 3-10 triệu liều và với Moderna để mua một số liều không xác định.
Tổng cộng, Việt Nam đã đặt mua và được viện trợ
hơn 170
triệu liều, đủ để đạt được miễn dịch cộng đồng. Nhưng số thuốc chủng ngừa
đó đến cuối năm 2021 hoặc đầu năm 2022 mới đến Việt Nam. Vì lý do này, chính phủ
hiện đã cho phép thuốc chủng ngừa Sinopharm của Trung Hoa và hiện đang bị áp lực
bắt đầu nhập khẩu ngay lập tức, bất chấp phản ứng dữ dội do chủ nghĩa dân tộc vốn
có và sự nghi ngờ nói chung của công chúng Việt Nam.
Một phần nguyên nhân khiến
Việt Nam không đạt được các thỏa thuận mua thuốc là vì nước này quan tâm đến việc
phát triển thuốc chủng ngừa nội hóa. Việt Nam hiện có 4 loại
thuốc chủng ngừa nội hóa khác nhau đang nghiên cứu: Nanogen, Vabiotech, Polyvac và Viện thuốc chủng ngừa
và sinh phẩm y tế (IVAC). Họ trễ trong giai đoạn thí nghiệm thứ hai và
thứ ba vì có rất ít người lây nhiễm trong nước để thí nghiệm lâm sàng và không
có công ty nào có nhiều kinh nghiệm trong việc thí nghiệm ở các quốc gia khác.
Mặc dù có ý muốn rõ ràng trong việc dùng đại dịch
để bắt đầu lĩnh vực kỹ thuật sinh học, nhưng một hướng hành động tốt hơn nhiều
là có một hoặc hai trong số các công ty dược phẩm cấp phép sản xuất một trong
các loại thuốc chủng ngừa mRNA.
Ví dụ: một công ty ở Thái Lan do Quốc vương
làm chủ, không
có kinh nghiệm sản xuất thuốc chủng ngừa, đang sản xuất thuốc chủng ngừa của
AstraZeneca và đã chậm trễ trong việc sản xuất, không chỉ ảnh hưởng đến Thái
Lan mà còn cả Malaysia và Philippines. Đây là khoảng trống mà Việt Nam đáng lẽ
phải lấp đầy, đặc biệt là khi nền kinh tế của nước này đang hoạt động hiệu quả
khi rất nhiều quốc gia trên thế giới đang ở trong tình trạng bế tắc.
Việt Nam hiện đang cố gắng lấp đầy khoảng trống
này, nhưng đã muộn. Vào tháng 6 năm 2021, Bộ Y tế đã liên lạc với chương trình
COVAX của Tổ chức Y tế Thế giới về việc thành lập một cơ sở sản xuất tại Việt
Nam để được
nhượng quyền các loại thuốc chủng ngừa khác nhau cho việc sản xuất
trong nước và cung cấp cho COVAX. Và trong các cuộc đàm phán gần đây với
Johnson & Johnson, Việt Nam không chỉ đồng ý mua thuốc chủng ngừa mà
còn xin
cấp phép sản xuất thuốc chủng ngừa này.
Bỏ qua sự thất bại trong việc ký hợp đồng,
chính phủ Việt Nam phải chịu trách nhiệm trên thực tế là cho đến nay họ mới chỉ
phân bổ 630 triệu đô la trong số 1,1 tỷ đô la cần thiết để đảm bảo sẽ có 150
triệu liều thuốc trong năm nay nhằm tiêm chủng cho khỏang 70% dân số nước này.
Trong khi đó, một quỹ do giới tài trợ tư nhân và doanh nghiệp đã huy động được
khoảng 329
triệu đô la để mua thuốc chủng ngừa.
Vậy chính quyền có đáng trách không? Ở một mức độ, có. Ở mức căn bản nhất, việc phê duyệt thuốc chủng ngừa
còn chậm. Cho đến nay, chỉ
có ba loại thuốc chủng ngừa (AstraZeneca, Sputnik V và Sinopharm) được
các nhà chức trách của Việt Nam phê duyệt.
Vào tháng 1, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức
Đại hội Đảng lần thứ 13, cuộc chuyển giao quyền lãnh đạo mỗi 5 năm. Tiếp đó là
vào tháng 5 bằng cuộc bầu cử chính phủ mới. Rõ ràng, tân Thủ tướng Phạm Minh
Chính, không giống như nhiều người tiền nhiệm chưa từng làm phó thủ tướng, đã
nao núng.
Trong một cuộc điện đàm vào đầu tháng 6 với
người đồng cấp Trung Hoa Lý Khắc Cường, Phạm Minh Chính đã yêu
cầu Trung Hoa “hợp tác và hỗ trợ Việt Nam để có được thuốc chủng ngừa
COVID”. Một số người ở Việt Nam lo lắng rằng điều này sẽ tạo thêm đòn bẩy cho
Trung Hoa khi đề cập đến các vấn đề như Biển Đông.
Và trên thực tế, một số người nghĩ rằng đó
chính xác là ý định của chính phủ: Điều này sẽ tạo ra không gian để chấp nhận
những nhượng bộ đau đớn về mặt chủ quyền đất nước mà chính phủ biết rằng họ trước
sau cũng phải chấp nhận. Đó là một cách để chính phủ ngăn chặn và định hình phản
ứng dữ dội chống Trung Hoa mà họ biết là sẽ lan tràn trên mạng xã hội. Tinh thần
Trung Hoa có thể biến đổi rất nhanh thành tinh thần chống chế độ, đặc biệt nếu
công chúng cảm nhận được rằng chính phủ đã bán rẻ lợi ích quốc gia cho Trung
Hoa.
Không có ích gì khi tâm chấn của đợt bùng phát
dịch bệnh hiện nay của Việt Nam là tỉnh Bắc Giang, nơi mà thủ tướng từng là
nhân vật đứng đầu, và bị ràng buộc cứng ngắc trong chuỗi cung ứng của Trung
Hoa. Nhiều người chỉ trích chính phủ từ lâu đã coi Phạm Minh Chính, một cựu viên
chức Bộ Công an, là người quá thân thiết với Trung Hoa.
Việt Nam sẽ vượt qua đại dịch. Nó đã bị một cú vấp ngã đáng ngạc nhiên. Nhưng nó có một chính phủ hiệu
quả, một hệ thống y tế công cộng tốt và những người dân yêu nước sẽ tập hợp.
Quan trọng nhất là ở Việt Nam có một sự khao khát để phát triển kinh tế, và
không bị mắc vào bẫy thu nhập trung bình. Thoát khỏi đại dịch càng nhanh càng tốt
là chìa khóa cho tương lai đó.
Nhưng đối với một chế độ đã dùng đại dịch để củng
cố tính hợp pháp của mình, đợi dịch bùng phát lần này và bất tài trong việc
tiêm chủng cho dân chúng đã làm hoen ố danh tiếng của họ. Và với một cộng đồng
dân mạng tích cực, chính phủ sẽ phải nghe những lời chỉ trích dồn dập. Chính phủ
đang trong một cuộc
đàn áp tàn bạo đối với nhưng người làm báo độc lập và những người bất
đồng chính kiến, nhưng việc nhắm vào các người phê bình chính phủ về vấn đề đối
phó với đại dịch này có thể là phản ứng tồi nhất đối với việc tiêm chúng đáng
thất vọng của Việt Nam.
https://media.defense.gov/2017/Aug/28/2001799184/400/400/0/170727-D-AA987-1006.JPG
Tác giả mời của Diplomat | Zachary Abuza là giáo sư tại Đại học Chiến tranh Quốc gia ở
Washington, D.C.
© 2021 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
Nguồn:
What Explains Vietnam’s Current COVID-19 Struggles?
By Zachary Abuza
June 15, 2021
https://thediplomat.com/2021/06/what-explains-vietnams-current-covid-19-struggles/
No comments:
Post a Comment