Autocracy Is Hazardous for Your Health
Người dịch : Jason Nguyen - Luật
Khoa
13/12/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/12/doc-tai-co-hai-cho-suc-khoe/
.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/Getty-Images.jpg
Nghiên cứu cho thấy
so với những nền dân chủ, các chế độ độc tài không có lợi cho sức khỏe của người
dân. Ảnh: Getty Images
Dịch từ bài viết “Autocracy Is Hazardous for Your Health” nằm trong khuôn
khổ Dự án Sức khỏe Toàn cầu (Global Health Program) của Hội đồng Quan hệ Đối
ngoại (Council on Foreign Relations – CFR). Dự án này nhằm cung cấp các phân
tích, khuyến nghị độc lập và thực chứng để giúp các nhà hoạch định chính sách,
lãnh đạo doanh nghiệp, nhà báo, và công chúng đối mặt với những thách thức về sức
khỏe trong một thế giới toàn cầu hóa.
***
Nền dân chủ không còn chết
đi trong đêm tối nữa. Nó chết giữa ánh sáng ban ngày, sau mỗi cuộc bầu cử, khi
các cử tri đón nhận những nhà lãnh đạo dân túy và chuyên quyền hứa hẹn sẽ dẹp bỏ
các rào cản và mang đến cuộc sống tốt đẹp hơn, là điều mà nền dân chủ đã không
làm được.
Không phải những cuộc đảo
chính quân sự lúc nửa đêm hay các giao dịch sân sau mờ ám đã đưa những kẻ mạnh
bạo (strongmen) lên nắm quyền lực ở Nicaragua, Thổ Nhĩ Kỳ và Venezuela – những
nền dân chủ trong quá khứ mà nay đã gia nhập hàng ngũ các nước chuyên quyền
trên thế giới. Chính những bất mãn hằng ngày về các khoản phí chăm sóc sức khỏe
cao, trường học kém hiệu quả, và các chính trị gia tham nhũng đã khiến cử tri ở
các quốc gia trên bầu chọn những lãnh đạo dân túy. Từ khi nắm được quyền lực,
các nhà lãnh đạo này đã công khai và dần dà làm tổn hại các cuộc bầu cử công bằng,
nền truyền thông tự do, và những ràng buộc thể chế (với nhà cầm quyền) – vốn là
những trụ cột quan trọng của một nền dân chủ. Việc đó lại được cổ vũ bởi những
người ủng hộ đang nóng lòng chờ kết quả.
Kết quả của xu hướng trên
là sự tăng lên về số lượng các quốc gia đang trải qua quá trình chuyên chế hóa
(autocratization) trên toàn cầu, hoặc sự suy giảm đáng kể về chất lượng nền dân
chủ của những nước này. Đồng thời, con số các quốc gia đang trải qua quá trình
dân chủ hóa – hoặc những cải thiện đáng kể về chất lượng nền dân chủ – vốn đạt
đỉnh vào năm 1994 ngay sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đã bắt đầu có xu hướng
giảm kể từ thời điểm đó (xem biểu đồ bên dưới).
Ở một số nước, như
Nicaragua và Thổ Nhĩ Kỳ, quy mô của quá trình chuyên chế hóa đã tiến xa đến mức
các nước này hiện được coi là những chế độ chuyên quyền có bầu cử (electoral
autocracies), tức là những nơi vẫn tổ chức bầu cử, nhưng dưới những điều kiện
nhằm ngăn cản các đảng đối lập vận động tranh cử một cách công bằng, hoặc không
để cho việc bỏ phiếu được diễn ra tự do hay được kiểm đếm chính xác. Theo nghiên
cứu gần đây của Anna Luhrmann và Staffan I. Lindberg trong Dự án
các biến thể của nền dân chủ – Varieties of Democracy (V-Dem) Project thuộc Đại
học Gothenburg, hơn 2/3 trong số các chế độ chuyên quyền bầu cử mới xuất hiện
là đến từ quá trình suy thoái dần dần của các nền dân chủ trước đây. Năm
nay, Dự án V-Dem đã liệt kê 24 nền dân chủ đang có xu
hướng chuyên quyền hóa. Hoa Kỳ nằm trong danh sách này.
Cột mốc dân chủ hóa
là bước nhảy vọt trong thang điểm dân chủ của một quốc gia. Cột mốc chuyên chế
hóa là bước sụt giảm lớn trong thang điểm đó. Quá trình chuyên chế hóa có thể xảy
ra ở các nước từng được xem là dân chủ, khi các giá trị dân chủ suy yếu, chẳng
hạn như hạn chế về quyền tự do ngôn luận hoặc với nền truyền thông tự do. Đồ
họa: CFR/ Việt hóa: Luật Khoa.
Sự chuyên chế hóa
làm giảm tuổi thọ người dân
Các cử tri có thể quay sang
ủng hộ chính quyền chuyên chế vì những hứa hẹn về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Thế
nhưng, ít nhất là về mặt sức khỏe, những kỳ vọng trên đã không được đáp ứng. Tuổi
thọ trung bình đã giảm 2% ở các quốc gia dân chủ mà gần đây trở thành chuyên
quyền (Honduras, Nicaragua, Thổ Nhĩ Kỳ và Venezuela), so với các nước dân chủ
không trải qua quá trình này (xem biểu đồ bên dưới).
Những tác động nguy hại của
chế độ chuyên quyền vẫn còn mạnh mẽ ngay cả khi tính đến những khác biệt về
kinh tế giữa các nước và loại trừ Venezuela, nơi có hệ thống y tế đang sụp đổ.
Đường màu cam thể
hiện tuổi thọ trung bình của bốn quốc gia (Honduras, Nicaragua, Thổ Nhĩ Kỳ và
Venezuela) mà trong thời gian gần đây đã chuyển sang thể chế chuyên quyền. Đường
màu xanh cho thấy tuổi thọ trung bình của các quốc gia tương đồng nhưng vẫn duy
trì nền dân chủ. Trục hoành thể hiện thời gian, trong đó các năm khảo sát được
quy về mốc 0, đánh dấu thời gian các quốc gia chuyển thành chuyên chế (màu cam)
hoặc duy trì con đường dân chủ (màu xanh). Tuổi thọ trung bình không bao gồm những
người nhiễm HIV, nhằm khu biệt tác động của quá trình chuyên chế hóa đối với sức
khỏe, và tránh sự sai lệch nếu có do tác động của các khoản hỗ trợ phát triển lớn
cho HIV/AIDS. Đồ họa: CFR/ Việt hóa: Luật Khoa.
Một khi không có áp lực của
việc tranh cử công bằng hoặc trách nhiệm giải trình trước một nền truyền thông
tự do, các lãnh đạo chuyên quyền có ít
động lực hơn những người đồng cấp trong các nền dân chủ để làm các
công việc nặng nhọc, như duy trì một cơ sở hạ tầng chăm sóc sức khỏe tiên tiến
và cải thiện việc chăm sóc y tế cho các căn bệnh mãn tính. Thay vì áp dụng các
biện pháp để cải thiện sức khỏe của người dân, các lãnh đạo chuyên quyền ở các
quốc gia như
Thổ Nhĩ Kỳ đã khai thác sự chia rẽ sắc tộc và giai cấp, cũng như cậy
nhờ sự bảo trợ để giữ vững quyền lực.
Quá trình chuyên quyền
hóa thật sự nguy hại cho sức khỏe. Ảnh hưởng của quá trình này đến tuổi thọ có
thể là do thiếu những thành tựu của nền dân chủ trong việc giảm số người tử
vong do các bệnh không lây nhiễm, vốn đang gia tăng nhanh chóng ở nhiều quốc
gia có thu nhập thấp và trung bình. Trải nghiệm dân chủ của một quốc gia – là
thước đo cho biết một đất nước đã trở nên dân chủ đến mức nào, và trong bao lâu
– còn quan
trọng hơn tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước đó trong việc làm
giảm các ca tử vong bởi các bệnh về tim mạch, chấn thương do tai nạn giao
thông, ung thư, và các bệnh không lây nhiễm khác.
Các bệnh về tim mạch là
nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới, vốn đã cướp đi sinh mạng của
hơn 17 triệu người vào năm 2015. Còn đột quỵ, ung thư, cũng như các bệnh không
lây nhiễm khác là nguyên nhân gây ra hơn 2/3 số ca tử vong trên toàn cầu, bao gồm
tám triệu người dưới 60 tuổi ở các nước nghèo. Đến năm 2040, các bệnh không lây
nhiễm ước tính sẽ
ảnh hưởng đến một phần dân số ở nhiều quốc gia thu nhập thấp và
trung bình, tương đương tỷ lệ ảnh hưởng tại Hoa Kỳ.
Một
nghiên cứu trước đó ước
tính rằng, sự tiến bộ trong trải nghiệm dân chủ đã giúp ngăn chặn 16 triệu ca tử
vong trên toàn cầu từ năm 1995 đến 2015, chỉ tính riêng các bệnh về tim mạch.
Biểu đồ dưới đây cho chúng ta thấy các quốc gia đã được hưởng lợi từ những cải
thiện về sức khỏe liên quan đến trải nghiệm dân chủ. Các quốc gia vùng Baltic,
Brazil, Mông Cổ, Ba Lan, và Nam Phi đã trải qua những cải thiện đáng kể nhất về
sức khỏe khi những nước này bắt đầu tiến trình dân chủ hóa đất nước. Đáng buồn
thay, một vài nước trong số đó, bao gồm Brazil và Ba Lan, giờ đây có thể đang
chuyển hướng sang nền chuyên chế.
Các màu khác nhau
thể hiện số người ước tính được cứu sống khỏi bệnh tim mạch nhờ vào những cải
thiện trong trải nghiệm dân chủ. Những màu tối hơn (tỷ lệ phần trăm cao) cho thấy
quốc gia đó đã cứu được nhiều người khỏi bệnh tim mạch bằng cách dân chủ hóa đất
nước. Đồ họa: CFR/ Việt hóa: Luật Khoa.
Có thể thấy, các kỳ bầu cử
tự do và công bằng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong những cải thiện về
sức khỏe của người trưởng thành, rất có thể vì chúng làm tăng trách nhiệm giải
trình và khả năng ứng phó của chính phủ. Các lợi ích sức khỏe của thể chế dân
chủ còn lớn hơn khi nhìn vào các quốc gia duy trì một quy trình tranh cử trung
thực, và đã trải qua ít nhất một lần chuyển giao quyền lực. Các nước như
Botswana và Nam Phi đã tổ chức các kỳ bầu cử đa đảng từ năm 1995 đến năm 2015
nhưng không có sự thay đổi về đảng cầm quyền (turnovers of the ruling party),
và điều này cũng đã không làm giảm các ca tử vong do bệnh về tim mạch như
Uruguay và Zambia – vốn đã trải qua ít nhất một lần chuyển giao quyền lực (xem
biểu đồ bên dưới). Tuy nhiên, việc trải qua nhiều lần thay đổi đảng cầm quyền
không làm tăng tác động tích cực hoặc tiêu cực của việc đã trải qua ít nhất một
lần chuyển giao quyền lực.
Kích thước của mỗi
hình tròn được tính theo số ca tử vong do bệnh tim mạch ở mỗi quốc gia vào năm
2015. Sự thay đổi trong trải nghiệm dân chủ là thước đo chất lượng về số năm mà
quốc gia đó đã trải qua nền quản trị dân chủ. Cả hai trục đều cho thấy những
thay đổi qua các năm từ 1995 đến 2015. Sự luân chuyển chế độ ý chỉ những thay đổi
trong đảng cầm quyền diễn ra ở các quốc gia có bầu cử đa đảng. Đồ họa: CFR/
Việt hóa: Luật Khoa.
Các cuộc bầu cử và sức khỏe
người dân của một quốc gia là hai thứ ngày càng không thể tách rời. Các thiết
chế và quy trình dân chủ, đặc biệt là các kỳ bầu cử tự do và công bằng, có thể
cải thiện sức khỏe của người dân, đặc biệt là đối với các bệnh về tim mạch và
các bệnh không truyền nhiễm khác. Các cử tri nên cảnh giác với những nhà lãnh đạo
dân túy hứa hẹn mang đến một nền y tế tốt hơn bằng cách làm xói mòn trách nhiệm
giải trình và việc xây dựng sự đồng thuận một cách từ tốn và cẩn trọng – những
đòi hỏi thiết yếu của một nền dân chủ.
***
Để tìm hiểu thêm về phương pháp nghiên cứu được sử dụng,
vui lòng xem phụ lục này.
No comments:
Post a Comment