Nước
sạch không hề vô tận, tương lai khô khốc thì rất gần
Y Chan
-
Luật Khoa
04/12/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/12/nuoc-sach-khong-he-vo-tan-tuong-lai-kho-khoc-lai-rat-gan/
W. H. Auden từng nói, “Cả
đống người sống mà không có tình yêu. Nhưng chả ai sống được mà không có nước.”
Day Zero
Lần gần đây nhất bạn đo đếm
mỗi ngày mình dùng hết bao nhiêu nước là khi nào? Xác suất cao là chưa lần
nào.
Không ít người trả hóa
đơn tiền nước mỗi tháng mà không nhớ nổi số mét khối nước đã sử dụng. Số tiền
thì chắc nhớ. Nghĩa là trong suy nghĩ của rất nhiều người, tiền quan trọng
hơn nước.
Một suy nghĩ kỳ cục, và cực
kỳ nguy hại.
Tháng 1/2018, tin tức từ
Cape Town lan nhanh khắp toàn cầu. Chính quyền thủ đô của Nam Phi
tuyên bố chỉ còn 90 ngày nữa, toàn thành phố sẽ không còn nước sạch để
dùng.
“Day Zero” là từ mà họ gọi
cho cái ngày phán xét đó: ngày mà tất cả các vòi nước trên toàn thành phố đều không
còn giọt nào để chảy ra.
Nhiều thành phố lớn trên
thế giới giật mình.
Người ta không lạ gì chuyện
những thị trấn hoang mạc, các vùng nông thôn xa xôi hay người dân sống tại các
khu vực hẻo lánh bị thiếu nước. Nhưng đây là một trong những đô thị lớn nổi tiếng,
từng nhiều năm liên tiếp được độc giả một tờ báo uy tín của Anh
bình chọn là thành phố lý tưởng nhất thế giới.
Day Zero của Cape Town
không phải đến từ một thảm họa đột biến nào. Suốt ba năm trước đó khu vực này
đã trải qua hạn hán nghiêm trọng, lượng mưa nhỏ giọt, các hồ trữ nước cạn kiệt.
Chính quyền không còn cách nào khác ngoài việc thông báo cho người dân biết sự
thật.
Kể từ lúc đó, hàng triệu
người phải thay đổi. Và thay đổi ngay lập tức, vì họ không còn thời gian
phung phí.
Cư dân thành phố
Cape Town xếp hàng lấy nước uống vào tháng 2/2018. Ảnh: Bram Janssen/ AP.
Mỗi người chỉ còn được hạn
mức sử dụng 50 lít nước sinh hoạt mỗi ngày. Để so sánh, mức nước sinh hoạt
bình quân của Việt Nam tại khu vực đô thị là 150 lít/ người/ ngày. Những
nhà “khá giả có điều kiện” tiêu thụ gấp đôi, thậm chí gấp ba con
số đó.
Người dân Cape Town được
khuyến cáo chỉ nên tắm hai lần mỗi tuần, và không nên dùng nước sạch để dội
toilet. Nước dùng cho các hoạt động không cấp thiết như tại các khu vực hồ bơi
công cộng, làm cỏ tưới cây… đều bị cắt.
Các thông báo về mực nước
dự trữ của thành phố được cập nhật mỗi ngày trên toàn bộ các phương tiện thông
tin đại chúng. Thành phố còn làm luôn cả bản đồ theo dõi lượng tiêu thụ nước của
từng hộ gia đình, công khai cho tất cả cùng theo dõi để biết nhà mình dùng bao
nhiêu nước so với hàng xóm và các khu vực xung quanh.
Các phương pháp, kinh
nghiệm tiết kiệm nước được người dân lan truyền chia sẻ cho nhau. Những nhà
hàng quán bar treo đầy poster khuyến cáo khách hàng tiêu dùng nước tiết kiệm.
Nước trở thành chủ đề nóng hổi trên khắp hang cùng ngõ hẻm.
Những nỗ lực đồng bộ
trong việc tiết kiệm kiểm soát nước giúp thành phố có thể “ăn gian” thêm thời
gian, đẩy lùi Day Zero thêm vài tháng.
Đến tháng 6/2018, lần đầu
tiên sau gần bốn năm, mưa đổ xuống khu vực. Mực nước các hồ dự trữ tăng lên,
Cape Town tạm thời thoát khỏi nguy khốn.
Nhưng người dân và chính
quyền nơi đây vẫn không quên bài học để lơ là phung phí bất kỳ giọt nước nào. Đối
với họ, nước đích thực là sự sống.
Cape Town không phải là
câu chuyện cá biệt.
Khắp
nơi trên thế giới, từ Tây Ban Nha đến Brazil, từ Ấn Độ đến Úc, từ Trung Quốc
đến Mỹ, tất cả đều phải
chuẩn bị tâm thế cho “Ngày mất nước”, nhất là khi cả lượng nước ngầm cũng dần
bị khai thác cạn
kiệt.
Biến đổi khí hậu đã và
đang khiến cho ngày đó đến gần hơn bao giờ hết.
Bao nhiêu nước sạch
mới đủ?
Trung bình mỗi người dân
khu vực đô thị cần vài trăm lít nước mỗi ngày để sinh hoạt. Đó là trên giấy tờ.
Con số thực gấp hàng chục lần.
Một trong những biện pháp
quan trọng giúp Cape Town tránh thảm họa là việc
điều tiết lại nước dùng cho nông nghiệp. Nước cho nông nghiệp và công nghiệp
là một trong những nguồn tiêu thụ nhiều nước sạch nhất của nhân loại. Trung
bình các hoạt động nông nghiệp
tiêu tốn 70% lượng nước sạch trên toàn cầu. Có
thống kê lên đến 80-90%.
Lấy ví dụ hai loại sản phẩm
nông nghiệp phổ biến ở Cape Town là nho và cam.
Cape Town là trung tâm sản
xuất rượu nho của Nam Phi. Mỗi năm hàng trăm triệu lít rượu được xuất khẩu ra
khắp thế giới.
Người ta tính toán rằng với
mỗi chai rượu 750 ml, lượng nước được dùng để trồng và thu hoạch nho phải gấp
1.000 lần, tới 750 lít. Nghĩa là với hàng trăm triệu lít rượu nho xuất
khẩu, người ta đã tiêu tốn hàng trăm tỷ lít nước mỗi năm. Tương tự, với
mỗi trái cam mất khoảng 80 lít nước sạch để tưới tiêu, lượng cam xuất khẩu mỗi
năm cũng tiêu tốn hơn 100 tỷ lít nước sạch.
Đó cũng là lý do mà giáo
sư Harry Futselaar, tại một hội thảo về sử dụng nước bền vững tại thành phố Hồ
Chí Minh, đã
công bố con số rằng trên thực tế, mỗi người dân thành phố đang sử dụng đến 3.000
lít nước mỗi ngày.
Con số trên là tổng hợp
lượng nước tiêu tốn cho tất cả những sản phẩm dịch vụ mà mỗi người sử dụng,
không chỉ tính lượng nước sinh hoạt trực tiếp.
Nhiều người sẽ phản đối
chữ “tiêu tốn”.
Nước dùng cho nông nghiệp
rốt cục cũng quay vòng, hoặc bốc hơi thành mưa rớt xuống lại, hoặc thấm xuống đất
chảy ra sông ngòi hay trở về thành nước ngầm, làm gì mà tốn với mất?
Trên lý thuyết đúng là vậy.
Trên thực tế, con người luôn có cách làm phức tạp vấn đề.
Một phần lớn lượng nước sử
dụng cho nông nghiệp bị ô nhiễm bởi đủ loại thuốc trừ sâu và phân hóa học. Các
loại hóa chất độc hại làm ô nhiễm nguồn nước, gây hại trực tiếp cho con người
đã đành. Ngay cả những thứ được xem là “dinh dưỡng” cũng khiến các nguồn nước
và hệ sinh thái có vấn đề.
“Eutrophication”
(phình dưỡng) đang trở thành vấn đề lớn nhất đối với chất lượng nước sạch trên
thế giới.
Những thứ được xem là chất
dinh dưỡng cho cây, ni-tơ và phốt-pho, được con người bơm vô tội vạ vào đất để
đẩy nhanh quá trình phát triển. Lượng chất dinh dưỡng dư thừa này chảy ra các hệ thống
sông ngòi, tạo ra hiện tượng bùng nổ tảo (“algal bloom” hay còn gọi là “tảo nở
hoa”).
Các loài tảo và cây sinh
sôi phát triển mạnh nhờ vào sự phình dưỡng này, đến khi chết đi phân hủy tiêu
thụ hết oxy trong nước, làm mất cân bằng lượng oxy, khiến các sinh vật khác “ngạt
thở”. Ngay cả
độc chất chúng tiết ra cũng có hại cho các sinh vật khác, và cả con người
khi ăn vào các sinh vật đó.
Rất nhiều hoạt động
của con người hiện đại góp phần làm ô nhiễm, tiêu tốn nước sạch. Ảnh: NRDC
Ngoài nông nghiệp, tất cả
các hoạt động khác của con người hiện đại, từ sản xuất xây dựng đến khai thác
tài nguyên thiên nhiên, đều tiêu tốn một lượng lớn nước sạch.
Không chỉ có vậy, các hoạt
động sản xuất công nghiệp, với sự xuất hiện của đủ loại hóa chất nhân tạo, còn
là một nguồn chính gây ô nhiễm nước sạch.
Không chỉ có hoạt động
nông nghiệp hay công nghiệp, gần như mọi
hoạt động của con người hiện đại đều góp phần tiêu và tốn nước
sạch trên trái đất, từ nước thải sinh hoạt đổ thẳng ra sông ngòi không qua xử
lý, hay hàng tỷ chiếc xe cá nhân, xe chở hàng, tàu vận tải, máy bay… thải ra dầu
thấm rỉ ra nước, đến các loại chất thải hạt nhân từ những nhà máy phát điện…
Ai cũng biết chúng ta đang
dùng cùng những giọt nước mà các loài khủng long đã
nhấm nháp hàng trăm triệu năm trước.
Nhưng xét đến khả năng tự
hủy hoại nguồn nước của chính mình và các sinh vật khác, khủng long, to và khủng
đến thế, cũng chỉ là muỗi so với con người.
Ground Zero
Các nông dân tại bang
Kansas, một vùng trung tây của nước Mỹ, không bao giờ ngờ có một ngày các giếng
nước của họ lần lượt
cạn khô.
Như nhiều gia đình trong
khu vực, những chiếc giếng đầu tiên của nhà Jay Garetson đã được khoan từ giữa
thế kỷ trước. Vào thời đó, cha ông của họ không bao giờ nghĩ đến chuyện nước có
thể cạn.
“Xài hoài không hết”
(inexhaustible) là cách mà họ nghĩ về nước ngầm (groundwater).
Và thế là nhà nhà đua
nhau đào giếng. Chỉ cần đào sâu vài mét là đã có nước bơm lên. Trong nhiều thập
niên qua, bất chấp những dấu hiệu cảnh báo về thiếu hụt nguồn nước, tất cả vẫn
đua nhau đào.
Giếng sâu vài mét không
còn nước? Đào sâu thêm chục mét. Lại có nước. Một thời gian sau, giếng chục mét
cũng hết nước. Đào tiếp thêm vài chục mét nữa. Lại có nước. Giờ đây, sau vài thế
hệ thi nhau đào, ngay cả những chiếc giếng sâu hàng trăm mét cũng cạn
khô.
Giếng nhà Jay Garetson dùng cho việc tưới tiêu đã bắt
đầu xuất hiện bong bóng nước. Ảnh: Steve Elfers/ USA Today.
Chiếc giếng nhà Jay
Garetson đang dùng cho ruộng ngô của mình sâu gần 200 mét, và cũng bắt đầu có dấu
hiệu yếu dần. Các bong bóng nước xuất hiện, nghĩa là ống bơm đã hút tới mức bắt
đầu cạn, có thêm không khí.
Nguyên lý thật ra đơn giản
như cắm ống hút vào trong ly trà sữa. Hút đến gần cạn, ta sẽ nghe thấy tiếng
không khí blục blục bị hút lên. Sẽ chẳng sao nếu đó chỉ là ly trà sữa. Thèm uống
tiếp, ta lại gọi thêm ly khác.
Nhưng đào một cái giếng mới là một chuyện hoàn toàn
khác. Nó có thể tiêu tốn hàng chục ngàn đô la cho mỗi hộ nông dân ở Mỹ. Càng
sâu càng tốn tiền. Và không thể cứ đào sâu mãi, vì, ít nhất giờ đây tất cả đều
đã nhận ra, nước ngầm hóa ra có hạn.
Khảo sát hàng chục ngàn
giếng đào trên khắp nước Mỹ, người ta phát hiện ra rằng trong hai chục năm qua,
cứ ba cái giếng thì có hai là tụt mực nước. Trung bình mực nước hụt xuống hơn
ba mét, có nơi hơn 30 mét.
Một người nông dân rắn rỏi
như Jay Garetson cũng nghẹn lời khi nghĩ đến tương lai, chỉ mười hai mươi năm nữa,
nông trại tồn tại suốt hàng trăm năm qua của gia đình sẽ biến mất, và “những đứa
trẻ nhà Garetson sẽ không còn được chứng kiến cảnh ruộng đồng của cha ông nữa”.
Đây không phải là chuyện
chỉ diễn ra ở đất Mỹ.
Các nông dân Ấn Độ đã
tuyệt vọng tìm đến cái chết, treo cổ bên miệng những chiếc giếng khô cạn kiệt
– khô và cạn như niềm tin của họ đối với tương lai.
Những vườn cây
chết khô xuất hiện ngày càng nhiều ở Morocco, nơi các nông dân phải lần lượt
bịt những miệng giếng sâu hàng trăm mét vì không còn giọt nước nào.
Trong khi đó ở Peru,
trong nhiều thập niên qua những ruộng măng tây được trồng ồ ạt vì giá trị xuất
khẩu (đem lại nhiều tiền), trong khi đây là loài cây
tiêu tốn rất nhiều nước. Các ông chủ lắm tiền từ nơi khác đến thu nạp ruộng
đất, lập các nông trại lớn, mua lại giếng đào của những nông dân xung quanh.
Họ bỏ tiền ra đầu tư kỹ
thuật, đào sâu thêm giếng, gắn thêm những chiếc ống to, lắp thêm máy phát điện,
và cho chạy 24/7. Nước ngầm bị hút lên phục vụ cho những dự án đầy tính kinh tế,
đẩy những gia đình trong khu vực vào cảnh thiếu nước sạch sinh hoạt.
Những mầm mống xung đột bạo
lực đầu tiên đã bắt đầu bùng nổ, khi các nông dân phẫn nộ tìm đến phản đối việc
khai thác giếng ngầm vô tội vạ của những trang trại lớn. Các đường ống bị đốt
phá. Bảo vệ của doanh nghiệp thượng cẳng tay hạ cẳng chân với người dân địa
phương.
Nếu vẫn tiếp tục cơn điên
đào giếng, sẽ không lâu nữa người ta sẽ bắt đầu giết nhau vì nước.
Việt Nam không phải ngoại
lệ. Đã có rất nhiều cảnh báo trong nhiều năm qua về tình trạng khai thác nước
ngầm vô tội vạ phục vụ cho mục đích
nông nghiệp lẫn
sinh hoạt. Nước dần cạn kiệt, và đất thì càng ngày càng sụt lún.
Báo
cáo vào cuối tháng 11/2020 của FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của
Liên Hiệp Quốc) cho biết thế giới đang có ba tỷ người bị ảnh hưởng bởi tình trạng
thiếu nước. Trong số này, khoảng 1,5 tỷ người sống trong điều kiện thiếu nước
trầm trọng, do hậu quả kết hợp từ biến đổi khí hậu, nhu cầu tăng cao và quản lý
nguồn nước yếu kém.
Con người đang tự đào mồ chôn chính mình, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng,
trong cơn điên phá nước.
Điều đáng tiếc duy nhất
là trong khi cơn điên đó của những thế hệ này gây ra, chính những thế hệ tương
lai lại phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất.
Từ zero đến hero,
hay ngược lại?
Chúng ta có thể làm gì để
dừng cơn điên phá nước này?
Ta có thể bắt đầu quan
tâm đến lượng nước mỗi ngày mình dùng, từ những tiểu tiết rất nhỏ nhặt (để ý lượng
nước tắm, vặn vòi nước vừa đủ, tiết kiệm nước khi rửa chén…).
Ta cũng phải lên tiếng
yêu cầu giải pháp trước vấn đề tiêu tốn và ô nhiễm nguồn nước trong các hoạt động
công nông nghiệp.
Trẻ em đi bộ lấy nước
sạch tại Lào. Ảnh: Asian Development Bank, CC BY-NC-ND 2.0
Thay đổi cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi các loại cây trồng, ưu tiên những
loại cây ít tiêu tốn nước. Thay đổi quy chuẩn hoạt động nông nghiệp, cấm việc sử
dụng các loại thuốc và phân hóa học tràn lan, chuyển dần sang hướng tự nhiên.
Thay đổi cả cơ cấu nền kinh tế, ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, trồng lại rừng,
tập trung cho các lĩnh vực khoa học công nghệ xanh và sạch, hạn chế cấp tiền
cho những ngành phá hoại môi trường… Đó đều là những vấn đề thuộc về trách nhiệm của mỗi người chứ không phải
chuyện nhà nước hay thuộc thẩm quyền của riêng chuyên gia nào.
Trong mắt những đứa trẻ
con, người lớn chúng ta luôn là “hero” (anh hùng). Vì chúng ta to lớn, vĩ đại,
làm được những thứ mà chúng không thể nghĩ tới.
Nhưng nếu không chấp nhận
sự thật, rằng chúng ta có trách nhiệm, có khả năng và phải thay đổi hiện trạng,
những người lớn rốt cục sẽ chỉ là con số không (zero). Thậm chí tệ hơn, khi lâu
nay những người lớn này đã ăn gian phá hoại luôn phần của các thế hệ tương lai.
Nếu không làm gì để thay
đổi, người lớn sẽ không có cả tư cách để làm số không tròn trĩnh.
Chúng ta sẽ chỉ là những
con số âm méo mó của lịch sử.
No comments:
Post a Comment