Chủ Nhật 10/05/2020
Quán
nửa khuya đèn mờ theo hơi khói…
Câu
hát đầu trong bài “Quán nửa khuya” của Tuấn Khanh & Hoài Linh, sáng tác năm
1961.
Đuốc
lồ ô bập bùng bên ánh lửa…
Câu
hát đầu trong bài “Tiếng chày trên sóc Bom-Bo” của Xuân Hồng, ra đời năm 1966.
Người
nghe nhạc tinh ý dễ nhận ra hai câu nhạc giống nhau trong hai bài nhạc cùng hợp
âm Mi thứ. Nếu có khác, bài “Quán nửa khuya” ghi thể điệu Boléro, bài “Tiếng
chày trên sóc Bom-Bo” ghi “Nhịp nhàng, rộn rã”.
Nhạc
sĩ Tuấn Khanh, khi nhắc đến sự giống nhau của hai câu nhạc này, chỉ mỉm cười, lắc
lắc đầu. Cái lắc lắc đầu, mỉm cười đầy ý nghĩa của ông cũng cho thấy, “nhạc đỏ”
miền Bắc có khuynh hướng theo chân “nhạc vàng” miền Nam từ nhiều năm trước chứ
không phải đợi tới bây giờ.
Nhạc đỏ, buồn ơi chào mi!
Cũng
không phải đợi tới bây giờ mà nhiều người yêu nhạc ở miền Bắc đã biết yêu, biết
tìm đến “nhạc vàng” miền Nam từ lâu lắm. Lộc “vàng”, chàng trai Hà Nội thời chiến
vì trót yêu nhạc vàng, thích hát nhạc vàng mà phải trả giá đến gần 10 năm tù tội.
Điều khá chua xót là, ngày ra tù, trong lúc lang thang trên đường phố, tiếng nhạc
vọng ra từ những quán xá bên đường mà anh nghe được lại chính là những bản nhạc
vàng “đồi trụy”, “phản động” đã đọa đầy anh trong lao tù, chôn vùi cả một thời
tuổi trẻ. Câu chuyện Lộc “vàng” là câu chuyện của người dám sống và chết cho nhạc
vàng, nhất định chỉ yêu nhạc vàng chứ không yêu nhạc đỏ.
“Nhạc
vàng”, cái “từ” này ở đâu ra và có nghĩa gì? Trước năm 1975, nhạc Việt ở miền
Nam không có màu mè xanh, đỏ, tím, vàng chi cả. Danh từ “nhạc vàng” cũng ít được
sử dụng. Nhiều lắm chỉ có ban nhạc tên Nhạc Vàng của Đài truyền hình Sài Gòn
(nhạc sĩ Phó Quốc Lân phụ trách) hoặc ít băng, dĩa nhạc ghi “băng vàng”, “nhạc
vàng” mang ý nghĩa là những bài nhạc hay, chọn lọc về tình yêu quê hương, lứa
đôi..., thường là nhạc điệu êm dịu, trữ tình. Trong khi đó, miền Bắc gọi chung
nhạc Việt miền Nam là “nhạc vàng”, theo nghĩa vàng vọt, vàng võ, bệnh hoạn và
được dán nhãn chính trị là nhạc “đồi trụy”, “phản động”.
“Nhạc
đỏ” của miền Bắc chính thức xâm nhập miền Nam Việt Nam kể từ 30 tháng Tư năm
1975. Đâu đâu cũng trông thấy cờ xí ngờm ngợp và những biểu ngữ đỏ chói giăng đầy
đường phố, đâu đâu cũng nghe thấy vang vang, rầm rập những bài hát “cách mạng”
nhịp quân hành, trong lúc loa phóng thanh liên tục mở hết cỡ phát đi những khẩu
hiệu ròn rã về “chiến công vĩ đại”, về “cuộc kháng chiến thần thánh”, về “đỉnh
cao chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc”…
Những
năm sau đó, nhạc đỏ vẫn liên tục tra tấn đôi tai người dân tội tình từ những
chiếc loa phường treo máng trên những cột điện dây nhợ chằng chịt. Vẫn là điệu
nhạc rất “đặc trưng”, nếu không rầm rập như bị ma đuổi thì cũng ồm ồm hay riu
ríu, lơ lớ tiếng Việt, thoạt mới nghe tưởng nhạc cách mạng… Tàu, đại để “Cô gái
vót chông”, “Cô gái mở đường”, “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn”, “Chào em cô gái Lam
Hồng”, “Rừng xanh vang tiếng Ta Lư”, “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó”, “Gặp nhau
trên đỉnh Trường Sơn”, “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Trường Sơn đông, Trường
Sơn tây”…
Hát
mãi, nghe mãi kiểu nhạc này thì cũng… chán, những tay chơi nhạc trong “phong
trào văn nghệ quần chúng” bèn ngồi lại, bàn bạc và lập ra những nhóm đàn hát ở
các phường, xã, xí nghiệp, công trường… gọi tên là “Nhóm ca khúc chính trị”
theo mô hình phổ biến của các nhóm nhạc nhẹ ở Liên Xô và Đông Âu. Các tiết mục,
bài bản thường là tự sáng tác, tự trình diễn, gọi là “tự biên, tự diễn”. Có thể
kể ra ít “Nhóm ca khúc chính trị” quen tên như nhóm nữ Xí nghiệp Dệt số 8, Mây
Trắng, Nắng Hồng, Rạng Đông, Đại Dương, Hải Âu, Bách Việt, Phù Sa, Dây Leo
Xanh… và một số ca khúc được quần chúng đón nhận, yêu thích vào thời ấy như “Những
lời em hát” (Từ Huy), “Tuổi trẻ và ước vọng” (Vy Nhật Tảo), “Đi qua vùng cỏ non”
(Trần Long Ẩn), “Ơi cuộc sống mến thương” (Nguyễn Ngọc Thiện), “Em như tia nắng
mặt trời” (Nguyễn Đức Trung)…
Các
“nhóm ca khúc chính trị” của thập niên 1980’s ấy là gạch nối dẫn đến sự nở rộ của
các “tụ điểm ca nhạc” thu hút lượng người xem ngày càng đông. Có thể kể tên những
tụ điểm quen thuộc ở Sài Gòn như sân khấu 126, Lan Anh, Trống Đồng, Đầm Sen,
nhà hát Thành Phố, nhà hát Hòa Bình…
Từ
các tụ điểm này, nhiều ca khúc dễ nghe và có giai điệu rất gần với “nhạc vàng”
của miền Nam lần lượt ra đời, như “Ngõ vắng xôn xao” (Trần Quang Huy), “Nha
Trang mùa thu lại về” (Văn Ký), “Hoa sữa” (Hồng Đăng), “Một đời người, một rừng
cây” (Trần Long Ẩn), “Em ơi, Hà Nội phố” (Phú Quang), “Hà Nội mùa vắng những
cơn mưa” (Trương Quý Hải & Bùi Thanh Tuấn)… Ngay đến cách đặt tựa bài hát
cũng mang phong cách “nhạc vàng”, như “Đêm thành phố đầy sao” (Trần Long Ẩn),
“Con đường có lá me bay” (Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền), “Lời tỏ tình của
mùa xuân”, “Này người yêu nhỏ xinh” (Nguyễn Ngọc Thiện), “Thơ tình cuối mùa
thu” (Phan Huỳnh Điểu & Xuân Quỳnh), “Ở hai đầu nỗi nhớ” (Phan Huỳnh Điểu
& Trần Đình Chính) , “Thành phố, tình yêu và nỗi nhớ (Phạm Minh Tuấn &
Nguyễn Nhật Ánh), “Giọt nắng bên thềm” (Thanh Tùng)…, với điệu nhạc lời ca tình
tứ, lãng mạn về tình yêu lứa đôi, được kể là “hàng hiếm” thời bấy giờ.
Con
đường có lá me bay
Chiều
chiều ta lại cầm tay nhau về…
(“Con
đường có lá me bay”, Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền)
Cũng
hàng me hàng phượng, cũng tay nắm lấy bàn tay.
Những
ngày không gặp nhau
biển
bạc đầu thương nhớ
Những
ngày không gặp nhau
lòng
thuyền đau rạn vỡ
Nếu
từ giã thuyền rồi
biển
chỉ còn sóng vỗ
Nếu
phải cách xa em
anh
chỉ còn bão tố…
(“Thuyền
và biển”, Phan Huỳnh Điểu & Xuân Quỳnh)
Cũng
biển tình và thuyền tình, cũng cách chia và nhung nhớ.
Khi
thấy buồn em cứ đến chơi
Chim
vẫn hót sau vườn đấy thôi
Chỉ
có trong tôi, ngày đã sang đêm lâu rồi…
(“Giọt
nắng bên thềm”, Thanh Tùng)
Nhiều
nhạc sĩ của dòng “nhạc cách mạng” bắt đầu chuyển hướng sáng tác để dọn ra những
món ăn tinh thần đáp ứng khẩu vị người yêu nhạc trong thời kỳ “đổi mới”. Một
dòng nhạc mới, nếu không hẳn là nhạc vàng thì cũng… vàng vàng, róc rách chảy
vào sinh hoạt ca nhạc ở trong nước từ lúc nào.
Nhạc vàng, thời hoàng kim của Boléro
Trên
sân khấu các tụ điểm văn nghệ thời ấy cũng có sự góp mặt của các ca sĩ miền
Nam, luôn là những giọng hát ăn khách, thu hút lượng khán giả đông đảo, như Duy
Khánh hát “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh), Nhật Trường hát “Hương thầm” (Vũ
Hoàng & Phan Thị Thanh Nhàn), Anh Khoa hát “Trị An âm vang mùa xuân” (Tôn
Thất Lập)… Người ta cũng nghe được qua các băng, dĩa nhạc, qua đài phát thanh,
phát hình các giọng hát quen thuộc của những ca sĩ còn ở lại trong nước, như Lệ
Thu hát “Hà Nội niềm tin và hy vọng” (Phan Nhân), Thanh Lan hát “Đi qua vùng cỏ
non” (Trần Long Ẩn), Lan Ngọc hát “Con đường có lá me bay” (Hoàng Hiệp & Diệp
Minh Tuyền), Họa Mi hát “Quảng Bình quê ta ơi!” (Hoàng Vân)… Thường thì các ca
sĩ này chọn hát những bài có nội dung “vô thưởng vô phạt” và nhạc điệu gần gần
với nhạc miền Nam.
Cứ
thế, cùng với những lần xét duyệt nhỏ giọt cho phép phổ biến những bài nhạc của
miền Nam trước năm 1975, nhạc vàng lần lần đi vào sinh hoạt ca nhạc trong cả nước,
lần lần đẩy lùi nhạc đỏ ra khỏi các sân khấu trình diễn. Nhạc đỏ, nếu không biến
mất thì cũng mờ nhạt, họa hoằn lắm được các “nghệ sĩ nhân dân ưu tú” biểu diễn
để chào mừng các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử của nhà nước cộng sản Việt Nam.
Nhạc vàng, đến một lúc nào đó, không đợi
nhà nước cho phép, trình diễn “vô tư” và tràn lan trên các sân khấu ca nhạc ở cả
hai miền Nam Bắc.
Những
cố gắng để cấm đoán, ngăn chận sự xâm nhập của nhạc vàng miền Nam chỉ là những
cố gắng vô ích và tuyệt vọng. Lạ một điều, bài nhạc nào càng bị cấm đoán thì
càng được người yêu nhạc tìm đến.
Không
ngạc nhiên chút nào, lần đầu tiên kể từ ngày “giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước”, nhà nước cộng sản đã ra nghị định chính thức “bỏ quy định cấp phép ca
khúc trước 1975”. Nghị định này ban hành vào tháng 1/2019 và được Cục Nghệ thuật
Biểu diễn giải thích như sau:
“Bỏ
cấp phép cho ca khúc nghĩa là ca khúc sáng tác ở thời gian, không gian nào cũng
bình đẳng như nhau, không có khoanh vùng đặc biệt để cấp phép. Trước hay sau
1975 đều như nhau.”
Lời
giải thích có vẻ tử tế và “hợp tình hợp lý” này (tiếc rằng chỉ đến sau 44 năm)
chỉ như hợp thức hóa một sự đã rồi.
Những
lời “tử tế” ấy không khỏi làm người ta nhớ, Cục Nghệ thuật Biểu diễn này từng
loay hoay để đưa ra lời giải thích “hợp tình hợp lý” rằng “người binh sĩ lên
đàng” trong bài nhạc xuân “Ly rượu mừng” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là… người
lính chống Pháp, nhằm biện minh việc cấp phép cho ca khúc này sau hơn 40 năm bị
“cấm cửa”.
Sự
cấp phép cho “Ly rượu mừng”, cho nhiều bài của Phạm Duy và của các nhạc sĩ tên
tuổi miền Nam càng cho người trong nước có thêm cơ hội làm quen và thêm yêu mến
dòng “nhạc vàng” từng bị nhà nước lên án, cấm đoán trong suốt bao nhiêu năm.
Nghị
định mở rộng cửa chào đón âm nhạc miền Nam trước năm 1975, cùng với sự tán thưởng
nồng nhiệt của giới yêu nhạc trong nước dành cho các ca sĩ tên tuổi miền Nam từ
hải ngoại về nước trình diễn, đánh dấu sự ra đi không hẹn ngày về của dòng “nhạc
cách mạng” hay “nhạc đỏ”, cho dù có là… “nhạc đỏ trữ tình”.
Đến
đây không thể không nói tới sự lên ngôi của “dòng nhạc trữ tình Boléro”, nổi
lên như một hiện tượng lạ, tạo cơn lốc cuồng nhiệt, thống lĩnh mọi sinh hoạt
văn hóa văn nghệ trong nước. Những bài hát thể điệu boléro xập xình, tiết tấu
chậm rãi, nhịp điệu rỉ rả, giai điệu luyến láy, mùi mẫn nỉ non, đi cùng lời ca
dễ hiểu, dễ hát, dễ nghe lại dễ đệm đàn với nhạc cụ thông dụng là chiếc guitar
thùng.
“Thánh
nữ Boléro” Jang Mi
Nhạc
boléro, vốn được xem là thể loại nhạc bình dân, đại chúng ở miền Nam, như thế
có đến hai đời sống, cách nhau đến gần nửa thế kỷ. Đời sống sau, tuy là tái
sinh nhưng lại sống hùng sống mạnh hơn vì được phổ biến tràn lan trong cả nước
chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi miền Nam như thời kỳ trước năm 1975.
Nhạc
boléro miền Nam đã hoàn toàn chinh phục trái tim đồng bào miền Bắc kể từ khi được
làm quen với thể điệu nhạc ấy, với lời ca tiếng hát ấy, như một món ăn ngon, hấp
dẫn và hợp khẩu vị sau nhiều năm phải nhai nuốt những món khó tiêu và ngán đến
tận cổ.
Nhiều
bài bản boléro mà người miền Nam xếp vào dòng nhạc hoài niệm thì nay được người
miền Bắc và cả nước “phấn khởi hồ hởi” vực dậy, nâng niu, đắm đuối, gọi là “nhạc
vàng boléro”, “tuyệt phẩm boléro”, “siêu phẩm bolero”. Nhạc boléro đã chính thức
lên ngôi, đạt ngôi vị cao nhất trong mọi thể loại nhạc Việt. Nhiều ca sĩ
“chuyên trị” boléro được ngưỡng mộ, tôn vinh và phong tặng những danh hiệu nổi
đình nổi đám như “Nữ hoàng boléro” (những Lệ Quyên, Bảo Yến, Thanh Tuyền, Giao
Linh, Hương Lan…), “Ông hoàng boléro” (những Chế Linh, Tuấn Vũ, Ngọc Sơn…),
“Thánh nữ boléro” (Jang Mi, Kim Tuyến), “Ngọc nữ boléro” (Phương Anh), “Thiên
thần boléro” (Quỳnh Trang), chưa kể những “Hoàng tử boléro”, “Công chúa boléro”
và cả “Thần đồng boléro” nữa. Những thần tượng boléro này đã mê hoặc, hớp hồn
không biết bao nhiêu… tín đồ boléro.
“Đó
là một loại âm nhạc có đẳng cấp,” ca sĩ Ánh Tuyết ở trong nước khẳng định khi
nói về những tình khúc boléro. Cô nói thêm, “Âm nhạc không có chuyện sang, sến
mà chỉ có hay hoặc dở.”
“Ông
hoàng boléro” Chế Linh tiếp lời, “Nếu âm nhạc là lời nói cất lên từ trái tim
thì Boléro chính là tiếng nói tình cảm nhất. Nó chan chứa, không bóng bẩy, đi
thẳng vào lòng người nghe.”
Chung cuộc, nhạc vàng của người miền
Nam với đỉnh cao là thời hoàng kim của Boléro, đã giải phóng người dân miền Bắc
thoát khỏi sự thống trị của nhạc đỏ trong mọi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ để
giành quyền tự do suy nghĩ, tự do bày tỏ cảm xúc, bộc lộ tâm tư tình cảm. Điều
này thực sự có ý nghĩa, vì đấy chính là quyền tự do tư tưởng, là một trong những
quyền tự do căn bản nhất của con người.
*
* *
Câu
chuyện Lộc “vàng” chua xót ấy sau cùng cũng có được một kết thúc có hậu. Ngày
anh bước chân ra tù vẫn có vòng tay mỏi mòn chờ đợi của người con gái yêu anh,
yêu những bài nhạc vàng anh hát, để cùng anh nối lại giấc mơ chưa tròn. Bây giờ
anh là chủ quán Café nhạc mang tên anh, Lộc Vàng, ven bờ Hồ Tây. Quán nhỏ nhưng
ấm cúng, đủ cho khách yêu văn nghệ, cho bè bạn yêu nhạc vàng và cho cả anh chủ
quán Lộc “vàng” ung dung bước lên sân khấu nhỏ, cất tiếng hát những bài tình ca
năm xưa đã đưa anh vào vòng lao lý, đã đưa người bạn thiết của anh đến cái chết
trong cô quạnh.
Anh
mong chờ mùa thu
Tà
áo xanh nào về với giấc mơ…
Chỉ
là “mùa thu”, là “tà áo xanh”, là “giấc mơ” thôi, vậy mà cũng làm anh phải trả
giá đến hết một thời tuổi trẻ trong chốn lao tù.
Sau
cùng thì Lộc “vàng” vẫn đứng đó hát. Như những văn hóa phẩm miền Nam có bị
thiêu đốt nhưng vẫn không cháy được, những bài nhạc vàng ấy có bị giam nhốt
nhưng vẫn không vùi dập được. “Không ai ngăn nổi lời ca”, như tên một bài hát
quen thuộc trong các phong trào “sinh viên tranh đấu” ở miền Nam ngày trước.
Nói
như nhà văn, nhà đạo diễn điện ảnh Trần Văn Thủy trong tập tạp bút Trong Đống
Tro Tàn, “Trong thời đại thông tin bùng nổ,
toàn cầu hóa này, mọi cấm đoán, kiểm duyệt thô bạo với văn học nghệ thuật là một
chuyện rất dại dột, là chuyện ‘Vác gậy ông đập lưng ông’ mà thôi.”
“Gậy
ông đập lưng ông”, thật không gì rõ hơn, khi mà người yêu nhạc trong nước đi từ
dửng dưng đến lạnh lùng quay lưng với nhạc đỏ để tìm đến với tình yêu nhạc
vàng.
Nếu
quả “Âm nhạc có thể làm thay đổi thế giới vì nó thay đổi được con người” (Music
can change the world because it can change people. ~ Bono) thì chúng ta có
lý do để tin rằng, sự thay đổi về khuynh hướng và quan niệm thẩm mỹ trong âm nhạc,
nghệ thuật của người Việt trong nước sẽ tác động không ít đến những đổi thay về
văn hóa, xã hội, chính trị cho đất nước mình. Sự thắng thế của nhạc vàng miền
Nam là “hoàn toàn không thể đảo ngược” và là “xu thế tất yếu của thời đại”, như
cách nói quen thuộc của nhà nước cộng sản.
Không
còn nghi ngờ gì nữa, trong cuộc đọ sức với nhạc đỏ miền Bắc, nhạc vàng miền Nam đã là “Bên thắng cuộc”.
Lê
Hữu
*
Ảnh internet
No comments:
Post a Comment