Minh Anh giới thiệu
Thứ ba, 26 Tháng 5 2020
22:42
Đại dịch Covid-19 đã biến
sự chia tách có chủ ý giữa Mỹ và Trung Quốc thành sự tan vỡ đầy hỗn loạn. Quá
trình này đã được thúc đẩy bởi hệ tư tưởng cứng nhắc của Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình và chủ nghĩa dân tộc của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Tám đời Tổng thống Mỹ kế
tiếp nhau đã theo đuổi chính sách can dự với Trung Quốc, dù đôi lúc bị gián đoạn.
Đây là một kỷ lục đáng kinh ngạc về tính tiếp nối chính sách. Cách tiếp cận này
ra đời vào năm 1972, khi Tổng thống Mỹ khét tiếng chống cộng Richard Nixon và Cố
vấn an ninh quốc gia của ông, Henry Kissinger, lên đường tới Bắc Kinh với một đề
xuất có khả năng làm thay đổi cuộc chơi : Mỹ và Trung Quốc nên chấm dứt tình trạng
thù địch kéo dài hàng thập kỷ của họ bằng việc liên minh với nhau chống lại
Liên Xô. Như Nixon đã tuyên bố với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, người từng
bị cựu Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles từ chối bắt tay tại hội nghị Geneva
năm 1954 : "Nếu hai dân tộc chúng ta là kẻ thù của nhau, thì tương lai của
thế giới này quả thực sẽ rất tăm tối". Ông tiếp tục nhấn mạnh rằng hai nước
vẫn có lợi ích chung dù có nhiều khác biệt, và rằng trong khi không thể xóa bỏ
khoảng cách tạo nên sự khác biệt đó thì hai nước vẫn có thể tìm cách thu hẹp
nó, để có thể ngồi lại với nhau. Nixon đưa ra kết luận hùng hồn rằng thế giới sẽ
theo dõi bước đi tiếp theo của hai nước.
Giờ đây, thế giới một lần
nữa đang dõi theo bước đi của Mỹ và Trung Quốc, nhưng đa số đều dự đoán kết quả
ngược lại. Hai cường quốc lớn tưởng như đã xích lại gần nhau thì hiện lại tự rời
xa nhau – do hoạt động chính trị ở cả hai nước lẫn dịch Covid-19 bùng phát trên
phạm vi toàn cầu. Hệ tư tưởng cứng nhắc của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và
chủ nghĩa dân tộc của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã thúc đẩy quá trình chia
tách diễn ra. Nhưng khi nước này tìm cách đổ lỗi cho nước kia về cuộc khủng hoảng
Covid-19, trong lúc thế giới nhận thấy rõ ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu
và khả năng dễ bị tổn thương của họ, và khi trật tự toàn cầu thay đổi về mặt kiến
tạo, thì Trung Quốc và Mỹ đang ngày càng xa nhau.
Trước khi Trump lên nắm
quyền, dưới sự dẫn dắt của Washington, thế giới đã mở rộng hợp tác với Trung Quốc,
đặc biệt là trong những năm sau khi Mao Trạch Đông qua đời vào năm 1976, khi Đặng
Tiểu Bình cam kết đưa đất nước theo đuổi một chương trình nghị sự mới táo bạo về
"cải cách và mở cửa với thế giới bên ngoài". Những người chủ trương ủng
hộ sự can dự hy vọng rằng chính sách mới này sẽ giúp khích lệ Trung Quốc tự gắn
kết với trật tự thế giới dựa trên các quy tắc dân chủ tự do hiện có để rồi theo
thời gian, các lợi ích của Trung Quốc và Mỹ sẽ hội tụ với nhau.
Tin vào sức hấp dẫn của
dân chủ và bị ru ngủ bởi lời hứa về một quỹ đạo lịch sử dường như không thể
tránh khỏi, hướng tới sự mở cửa, quyền tự do và công lý hơn, người Mỹ có xu hướng
coi viễn cảnh về sự hội tụ lợi ích như vậy là điều chắc chắn xảy ra. Xét cho
cùng, nếu Trung Quốc muốn tham gia đầy đủ thị trường toàn cầu thì họ không có lựa
chọn nào khác ngoài việc tuân thủ "luật chơi" hiện có – và sau khi
Chiến tranh Lạnh kết thúc, điều đó có nghĩa là luật chơi của Mỹ. Vì vậy, khả
năng hội tụ lợi ích lớn hơn dường như chắc chắn đến mức người ta thậm chí còn từng
luận bàn đến khái niệm có tên gọi "Chimerica" hay việc thành lập
"Nhóm G2". Những hứa hẹn về một tương lai ít bất hòa hơn cho phép người
ta xem nhẹ những khác biệt về giá trị và hệ thống chính trị của Trung Quốc với
các nước thuộc thế giới dân chủ. Những người đề xướng cách tiếp cận can dự với
Trung Quốc nhấn mạnh tiến triển trong tương lai dưới tác động của các cải cách
kinh tế giả định và cảnh báo rằng chính sách cứng rắn hơn của Mỹ sẽ chỉ gây tổn
hại cho các nhà cải cách của Trung Quốc.
Sự đồng thuận đáng kể về
chủ đề hợp tác Mỹ-Trung bắt đầu hình thành. Đó là sự đồng thuận vượt lên trên
những ranh giới mang tính ý thức hệ trong nội bộ nước Mỹ. Năm 1979, Tổng thống
Mỹ Jimmy Carter, được mô tả là Tổng thống Mỹ bảo vệ nhân quyền đầu tiên, đã phớt
lờ hành vi vi phạm nhân quyền dưới nhiều hình thức của Trung Quốc. Ông không chỉ
hoan nghênh Đặng Tiểu Bình đến Nhà Trắng mà còn khôi phục quan hệ ngoại giao
chính thức một cách phô trương. Năm 1989, Tổng thống George H.W. Bush đã tìm mọi
cách duy trì quan hệ hữu hảo với Trung Quốc sau vụ thảm sát Thiên An Môn bằng
cách hai lần cử Cố vấn an ninh quốc gia Brent Scowcroft tới Bắc Kinh khẩn khoản
yêu cầu Đặng Tiểu Bình đừng để mối quan hệ khó khăn lắm mới tạo dựng được giữa
Mỹ và Trung Quốc bị hủy hoại.
Khi Liên Xô sụp đổ vào
năm 1991 và cần có một lý do chính đáng khác để tiếp tục can dự với Trung Quốc,
Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã nhanh chóng hành động. Sau khi cam kết
"không dung túng những kẻ bạo chúa, từ Baghdad đến Bắc Kinh, và chỉ trích
người tiền nhiệm vì đã bắt tay như thường lệ với những kẻ đã giết chết tự do ở
Quảng trường Thiên An Môn", cuối cùng ông chuyển sang ca ngợi Chủ tịch
Trung Quốc Giang Trạch Dân, vận động hành lang để trao cho Trung Quốc quy chế
"tối huệ quốc", và thậm chí còn giúp đưa nước này gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Bill Clinton là Tổng thống Mỹ đầu tiên đặt tên cho
chính sách mới này là "can dự toàn diện". Ông hy vọng rằng một khi
Trung Quốc tiếp nhận chủ nghĩa tư bản, dân chủ sẽ là đích đến tiếp theo.
Tổng thống Barack Obama
đã tiếp tục theo đuổi lời hứa này, tìm cách thổi luồng gió mới cho quan hệ Mỹ-Trung
bằng cách nhờ Ngoại trưởng Hillary Clinton trấn an Bắc Kinh rằng chính quyền của
ông sẽ không để cho những vấn đề nhạy cảm như nhân quyền can thiệp vào sự hợp
tác của hai nước về biến đổi khí hậu và khủng hoảng kinh tế.
Các tập đoàn và người
tiêu dùng Mỹ đều được hưởng lợi từ những chính sách này, ngay cả khi Mỹ buộc phải
thỏa hiệp một số nguyên tắc dân chủ và chịu thâm hụt thương mại ngày càng tăng.
Nhưng Trung Quốc được hưởng lợi nhiều nhất : chính sách can dự đã vô hiệu hóa Mỹ
với tư cách là một đối thủ vào thời điểm thuận lợi nhất cho Bắc Kinh. Trong hơn
30 năm đó, Trung Quốc đã thoát khỏi "cái kén cách mạng", phát triển nền
kinh tế mong manh, đặt nền móng cho cơ sở hạ tầng hiện đại và trở thành một phần
quan trọng của các thể chế toàn cầu. Trong môi trường được bao bọc, mà ở đó nước
này không phải đối mặt với nguy cơ xảy ra chiến tranh với một cường quốc lớn
khác hay thậm chí là thái độ thù địch, Trung Quốc không chỉ sống sót mà còn
phát triển thịnh vượng.
Tuy nhiên, với việc Tập Cận
Bình lên nắm quyền vào năm 2012, bản chất của mối quan hệ song phương quan trọng
này đã bắt đầu thay đổi. Tập Cận Bình đã thay thế khẩu hiệu "trỗi dậy hòa
bình" của người tiền nhiệm bằng ý tưởng "Giấc mộng Trung Hoa" và
"sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc Trung Hoa" mang tính hiếu chiến hơn.
Những ý tưởng này vạch ra tầm nhìn lớn về một Chính phủ Trung Quốc quyết đoán
hơn và có ảnh hưởng hơn ở cả trong và ngoài nước. Nhưng thái độ quyết đoán
không nhân nhượng của Tập Cận Bình trong chính sách đối ngoại và chủ nghĩa độc
đoán ngày càng mở rộng ở trong nước đã bắt đầu khiến Mỹ cũng như nhiều đối tác
thương mại nhỏ hơn xa lánh. Họ thấy mình bị mắc kẹt trong mối quan hệ ngày càng
bất bình đẳng, và đôi khi thậm chí bị lợi dụng.
Tầm nhìn mới đầy tham vọng
của Tập Cận Bình về một Trung Quốc quyết đoán hơn và ít tỏ ra ăn năn hơn đã sản
sinh ra một loạt các chính sách liều lĩnh : chiếm đóng và sau đó quân sự hóa Biển
Đông ; khiến một thế hệ người Hong Kong quay sang chống lại Bắc Kinh bằng cách
vô cớ làm xói mòn mức độ tự trị cao mà họ từng hứa năm 1997 ; gây hiềm khích với
Nhật Bản về quần đảo Điếu Ngư/Senkaku từ lâu vốn thuộc quyền quản lý của nước
này ở biển Hoa Đông ; đe dọa Đài Loan trắng trợn đến mức khiến ngay cả Quốc dân
đảng vốn thân Bắc Kinh cũng trở nên xa lánh.
Hậu quả không chỉ là sự
gia tăng căng thẳng trong quan hệ ngoại giao với Washington, một cuộc chiến
thương mại cùng với sự chia tách giữa các yếu tố trong nền kinh tế của hai cường
quốc, mà còn là sự suy yếu về cấu trúc hợp tác xã hội dân sự xuyên quốc gia và
thậm chí là sự gián đoạn giao lưu văn hóa. Với tất cả những điều kể trên, Tập Cận
Bình đã cung cấp cho Washington mọi vũ khí cần thiết để thay đổi lập trường một
thời bao dung của họ. Kết quả là một lập trường chính thức gay gắt hơn nhiều, với
sự ủng hộ của một trong những liên minh bất ngờ nhất trong chính trị Mỹ : Một mặt
trận thống nhất gồm các nghị sĩ thuộc cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ vốn hiếm
khi nhất trí với nhau. Nếu trong quan hệ Mỹ-Trung không phải vẫn còn sự tồn tại
của chất xúc tác là sự cải cách chính trị của Trung Quốc, thì viễn cảnh sự gắn
kết Mỹ-Trung lấy lại được niềm tin ở Mỹ trong tương lai gần là điều khó có thể
hình dung. Và khi chia tách thay thế cho gắn kết thì sự can dự sẽ trở nên vô
nghĩa.
Tuy nhiên, Tập Cận Bình
đã dựa trên lôgích nào để thực thi các chính sách khiến cho sự can dự trở nên
vô dụng đến vậy trong khi điều này vốn dĩ mang lại hiệu quả cao ? Điều gì đã
khiến ông xa lánh Mỹ đến vậy dù không cần thiết ? Đương nhiên, có vô số lý do cụ
thể cho điều này, nhưng Tập Cận Bình chưa bao giờ đưa ra một lời giải thích bao
quát đề cập đến lợi ích thực sự của Trung Quốc. Lời giải thích hợp lý nhất có lẽ
là lời giải thích đơn giản nhất : Chủ nghĩa dân tộc "cơ bắp" và sự
phô trương sức mạnh quá mức thường có tác dụng tốt trong nước đối với những người
được khích lệ nhờ niềm tự hào dân tộc.
Tuy nhiên, sự hưởng thụ
như vậy là một điều xa xỉ mà rốt cuộc có thể gây thiệt hại nghiêm trọng trong
thời kỳ khủng hoảng. Và sự xuất hiện bất ngờ của đại dịch Covid-19 chính là một
khoảnh khắc như vậy. Sự bất lực ban đầu của Tập Cận Bình trong việc xử lý khủng
hoảng đã làm suy yếu cả cảm giác bất khả xâm phạm của cá nhân ông lẫn nguồn
quan trọng nhất mang lại cho Đảng cộng sản Trung Quốc tính hợp pháp chính trị,
đó là tăng trưởng kinh tế. Những số liệu ban đầu trong giai đoạn tháng 1-2/2020
do Trung Quốc công bố cho thấy sự sụt giảm 20,5% về tiêu dùng và 13,5% về hoạt
động sản xuất so với cùng kỳ năm ngoái. Ngay khi nước này vật lộn tìm cách hồi
phục, thì các thị trường ở những nơi khác trên thế giới lại đang rơi vào tình
trạng phong tỏa.
Bất chấp những nỗ lực của
Trung Quốc trong việc nhào nặn cuộc khủng hoảng thành một chiến thắng toàn cầu
trên mặt trận tuyên truyền - được trợ giúp nhờ sự vụng về của Mỹ trong việc đối
phó với dịch bệnh bùng phát - những thiệt hại trong nước có thể sẽ là đòn chí mạng,
không phải đối với chế độ đảng-nhà nước mà đối với cá nhân Tập Cận Bình, người
đã đặt cược uy tín của mình vào việc xử lý cuộc khủng hoảng. Điều không may là
cuộc khủng hoảng rốt cuộc cũng có thể là đòn chí mạng đối với mối quan hệ tương
đối ổn định mà Trung Quốc từng có với Mỹ.
Chính quyền Obama đã bắt
đầu đánh giá lại sự khôn ngoan của việc đơn phương tìm cách duy trì sự can dự
có hiệu quả, và đó là lúc Trump xuất hiện cùng đôi ngũ gồm những nhân vật có
thái độ thù địch với Trung Quốc (như Peter Navarro, Steve Bannon và Michael
Pillsbury), những người từ lâu đã cảnh báo rằng một Trung Quốc ngày càng hung
hăng, độc đoán và được vũ trang đầy đủ vừa là điều không thể tránh khỏi, vừa là
một mối đe dọa đối với các lợi ích quốc gia của Mỹ.
Sau đó, ngay khi cuộc
tranh luận về việc tách khỏi các chuỗi cung ứng của Trung Quốc bắt đầu nóng
lên, thì Covid-19 lại xuất hiện. Khi các hãng hàng không hủy chuyến, các triển
lãm thương mại bị hoãn, ngành du lịch chững lại, các dòng vốn đầu tư cạn kiệt,
xuất nhập khẩu lao dốc và việc trao đổi các công nghệ cao bị gián đoạn, cuộc
tranh luận trên đã tuột khỏi tay các chuyên gia chính sách và rơi vào bàn tay của
Chúa. Bằng việc chia tách Mỹ và Trung Quốc gần như chỉ trong một sớm một chiều,
đại dịch đã chặn đứng cuộc tranh luận này và mang lại cho Trump và những nhân vật
hiếu chiến dưới quyền ông những biện pháp trừng phạt nặng nề theo đúng kiểu mà
họ cần để giáng đòn chí tử vào sự can dự - và có lẽ là toàn thể khái niệm về
toàn cầu hóa như động lực tích cực.
Tuy nhiên, hầu hết người
Mỹ vẫn tiếp tục muốn có toàn cầu hóa dưới hình thức nào đó - nhưng có lẽ vai
trò của Trung Quốc trong đó mờ nhạt hơn nhiều. Giờ đây khi các doanh nghiệp Mỹ
đã trở nên hoài nghi với kiểu can dự cũ, chính sách đó đã mất đi những động lực
thúc đẩy cuối cùng. Cuộc chiến thương mại đã khiến các công ty nhận thức rõ hơn
về nguy cơ của việc "bỏ hết trứng vào một giỏ", và ngay từ trước khi
có cuộc khủng hoảng Covid-19, những công ty này đã và đang đa dạng hóa hoạt động
sản xuất theo hướng xa rời Trung Quốc và hướng tới các nền kinh tế đang phát
triển khác như Việt Nam. Đại dịch có lẽ chỉ đẩy nhanh tiến trình đó mà thôi.
Từ đó đến nay, những người
ủng hộ can dự với Trung Quốc trong quân đội Mỹ, các nhà thờ, giới truyền thông,
các tổ chức tư vấn, xã hội dân sự và ngay cả giới học giả đều giảm khi những sự
tiếp xúc và khả năng trong quá khứ giờ đây bị triệt tiêu. Mối quan hệ Mỹ-Trung
đã rơi vào trạng thái trôi nổi trong môi trường không trọng lực mà ở đó cả Tập
Cận Bình lẫn Trump - do cách xử lý sai lầm của họ đối với thách thức Covid-19 -
đều đang phải vật lộn lấy lại thăng bằng.
Chắc chắn là nếu dịch bệnh
tạm thời được kiểm soát bên trong Trung Quốc, như những số liệu gần đây về các
ca mắc mới đã cho thấy, thì Tập Cận Bình sẽ khẳng định chiến thắng trong nước.
Và nếu những nỗ lực của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Trump trong việc kiểm soát sự
bùng phát của dịch bệnh tiếp tục vấp phải khó khăn, thì điều đó sẽ chỉ càng khiến
cho thành tích của Tập Cận Bình trở nên chói lọi. Tuy nhiên, danh tiếng của Tập
Cận Bình vẫn bị tổn hại đáng kể, nhất là khi ông phải đối mặt với sự chỉ trích
vì đã ỉm những lời cảnh báo do các chuyên gia y tế ở Trung Quốc đưa ra mà chắc
hẳn đã có thể ngăn chặn sự lây lan của virus. Tình hình càng bất lợi cho ông
khi các nhà lãnh đạo Mỹ từ Tổng thống Trump cho đến Ngoại trưởng Mike Pompeo đều
khăng khăng gọi đây là "virus Trung Quốc" nhằm buộc nước này phải chịu
trách nhiệm - và cũng để đánh lạc hướng sự chú ý khỏi những thất bại của họ.
Tuy nhiên, dù thắng hay
thua, Tập Cận Bình cũng đã lợi dụng đại dịch làm cái cớ để vừa thăm dò, vừa mở
rộng nhiều cơ chế kiểm soát mới.
Nếu cuộc chiến chống
virus vượt ra ngoài tầm kiểm soát một lần nữa khi Tập Cận Bình hô hào người lao
động trở lại dây chuyền lắp ráp để giải cứu nền kinh tế Trung Quốc, thì ông gần
như chắc chắn sẽ tuyên bố rằng mối đe dọa sống còn đối với đất nước giờ đây đã
leo thang đến mức một chính phủ buộc phải tập trung nhiều quyền lực hơn, hùng mạnh
hơn, khắt khe hơn. Dù đại dịch diễn biến ra sao ở Trung Quốc, thì sau khi nếm
trải những thiệt hại do virus gây ra, Bắc Kinh cũng có khả năng sẽ trở nên độc
đoán, hung hăng và có thiên hướng xung đột hơn với trật tự tự do dân chủ dựa
trên các quy tắc mà nhiều người Mỹ vẫn mơ tưởng hão huyền là do đất nước họ
lãnh đạo.
----------------------
Orville Schell, Giám đốc Trung tâm Quan hệ Mỹ-Trung
thuộc Hiệp hội Châu Á, Hoa Kỳ. Bài viết được đăng trên tạp chí Foreign Policy
NGUỒN :
April 3, 2020, 1:05 AM
No comments:
Post a Comment