Lê Tuấn Huy
Tháng 12 30, 2012
Ngày 27/12/2012, án phúc thẩm tuyên cho Hoàng Khương như sơ thẩm.
Ngày 28/12/2012, công an Hải Phòng đề nghị truy tố anh em Đoàn Văn Vươn tội
giết người. Một lần nữa, hai nhân vật không liên hệ nhau này lại ngẫu nhiên
“gần gũi” theo dòng sự kiện. Bài dưới đây được viết trong hai ngày
09-10/02/2012 nhưng chưa công bố. Dù mất đi tính thời sự, tôi vẫn giữ nguyên
nội dung ban đầu, để góp tiếng nói về những con người này.
28/12/2012
Lê Tuấn
Huy
1.
Ngày 07/02/2012, Hải Phòng quyết định “kỷ luật” đối với một số
giới chức huyện Tiên Lãng và xã Vinh Quang. Số phận Đoàn Văn Vươn cùng những
người bị khởi tố chung đương nhiên vẫn mặc định là “xử lý theo pháp luật”[1].
Cùng ngày, đã diễn ra hội thảo “Báo chí điều tra và lợi ích công”. Về
trường hợp của nhà báo Hoàng Khương, có cả ý kiến (tạm thời gọi là) bênh vực và không bênh vực.
2.
Chắc chắn, dù ủng hộ nhà họ Đoàn, không ai lại cổ động cho hành
động mang tính bạo lực. Nhưng liệu họ có đáng bị ghép tội “giết người” và
“chống người thi hành công vụ”? Trong khi nhiều người vẫn còn e dè về “tội
trạng” này, thì chị Phạm Thị Hiền, em dâu Đoàn Văn Vươn, đã là người đầu tiên
khẳng khái: “cướp không phải [là] công vụ”.
Câu nói ngắn gọn đó không chỉ lột tả được bản chất của vụ việc,
mà còn khái quát được một tình trạng đã định hình như quốc nạn: cướp bằng công vụ. Nghiêm trọng hơn, trong khi những vụ việc
khác, cướp được thực hiện bằng một loại luật pháp nhiều bất cập, thì ở Cống
Rộc, cướp được thực hiện bằng một loại luật rừng công khai, bởi các giới chức
liên quan đã mặc sức “diễn dịch” một cách độc ác cái luật pháp nhiều bất cập
đó, và còn được sự hỗ trợ gần như của toàn bộ cỗ máy cưỡng hành địa phương, vốn
được quan niệm chung là “sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản”.
Nếu anh em họ Đoàn không hành động như đã hành động khi cùng
quẫn, thì để “sạch” về mặt pháp lý, họ có những chọn lựa nào?
1. Chấp nhận mất đất, rồi sống an phận, lầm lũi với nỗi oan ức.
2. Chấp nhận mất đất, rồi gia nhập vào đội quân khiếu kiện
thường trực và trường kỳ vốn đang ngày một lớn, mà qua thực tế, kết quả của đại
đa số là khiếu kiện vô tận, vô định và vô hiệu.
3. Chấp nhận mất đất, nhưng liều mạng, và thay vì liều mạng với
lực lượng mang danh “công vụ” như đã làm, là liều mạng với chính mình, vì chỉ
còn con đường này mới “bảo tồn” được nỗi oan khiên trước công luận.
Với hai tình huống đầu, theo chân người trí thức khi mất đi hoạt
động đặc trưng, là tư duy độc lập và tự do tư tưởng, phải “lưu vong” trên chính
đất nước mình, thì về mặt cá nhân lẫn xã hội, người nông dân khi mất đi hoạt
động đặc trưng, sẽ phải lưu
vong trên chính quê hương bao đời, theo đúng nghĩa đen.
Còn với tình huống thứ ba, kết quả là thương vong. Và đã có
“tiền lệ” về hình thức tự hoại cực đoan nhất khi oan sai, là trường hợp tự thiêu của ông Nguyễn Văn Đương ngay trong lúc
bị cưỡng chế[2].
Thế nhưng, phải chăng giá trị pháp lý và giá trị xã hội của Việt
Nam ngày nay chỉ chấp nhận người dân hoặc là lưu vong, hoặc là thương vong, còn
dấn thân thì phải trừng trị?
Trong khi đó, nếu không hành động như đã hành động, gia đình ông
Vươn sẽ không vướng phải trách nhiệm pháp lý nhưng sau đó, theo chân họ là hàng
loạt hộ khác ở Tiên Lãng cũng sẽ chịu cảnh mất đất, trong sự lặng yên của xã
hội, để rồi tệ trạng cướp bằng luật pháp và cướp bằng luật rừng cứ thế thỏa sức
trên khắp đất nước. Hơn thế, hành động có tác động cảnh tỉnh không thể khác
được của họ không chỉ giúp ích cho những người dân bình thường, mà còn cho cả
giới lãnh đạo cấp cao, cho toàn bộ bộ máy cầm quyền và hệ thống chính trị.
3.
Nếu đem “tư duy” quy giản của vụ nhà họ Đoàn – xét hành động của
họ cô lập trong việc nổ mìn tự tạo và bắn súng hoa cải về phía “lực lượng chức
năng” – áp dụng cho trường hợp Hoàng Khương, tức cô lập sự việc trong hành động
đưa tiền cho công an, mà không xét động cơ, bối cảnh xã hội và điều kiện bất
khả kháng, thì nhà báo này đáng mang tội “hối lộ”.
Về động cơ, có lẽ ngoài phía công an dường như đang muốn khẳng
định ngược lại, chắc rằng đa số công luận đều đồng tình với sự dấn thân chống
tiêu cực của anh.
Về bối cảnh xã hội, mà ở đây, cụ thể là bối cảnh hợp nhất giữa quyền lực công và lợi ích tư trong
hoạt động công quyền đã gần như đạt đến đỉnh điểm. Ngoài tầng cao biểu hiện ở
tham nhũng và nhóm lợi ích, ở tầng thấp hơn, là “hệ thống” sách nhiễu tư túi
hàng ngày, trong đó tiêu cực của công an biến chất, vốn đã là đối tượng phản
ánh thường xuyên của truyền thông.
Đương nhiên, cho dù ở các quốc gia mà truyền thông có tầm hoạt
động và ảnh hưởng lớn hay ở bất kỳ đâu cũng vậy, phóng viên đều không được vượt
quá giới hạn trong nhập vai điều tra. Tuy nhiên, nếu không có cái bối cảnh độc
nhất vô nhị trên thế giới mà tướng Lê Thế Tiệm đã khái quát, rằng: “Có cái gì đó
ngoài đường mà ai cũng muốn gửi con em ra đứng?”, và nếu đội ngũ “con em” đó
không có cả một “hệ thống” chân rết tự phát hỗ trợ cho tiêu cực, thì hành động
của Hoàng Khương mới trở thành điều phi lý và phi pháp, vì khi đó, đơn giản nó
chỉ là cố tình dựng lên một sự vụ cá biệt[3].
Hoàng Khương, nếu không nhập vai đến tận cùng ở thế không thể
khác được, mà chỉ dừng lại ở mức ghi nhận suông, thì sẽ không bao giờ có được
chứng cứ sống và không thể
chối cãi[4], để rồi việc làm phi pháp của những công an
tiêu cực sẽ mãi mãi nằm trong vùng cấm, vì đó là nơi chỉ có sự “tiếp cận” khép
kín của những đối tượng liên quan, là chính họ cùng những cánh tay nối dài của
họ, và những người phải cần đến ê kíp đó.
Ngoài ra, truyền thông là ngành mang tính đặc thù, nên hành động
chống tiêu cực của họ cũng mang tính đặc thù. Do vậy, trong việc này, sẽ là sự
hạ cấp phi lý đối với truyền thông khi quy họ về chung với người dân bình
thường qua việc không thừa nhận mặt báo như một công cụ tố giác khi trưng ra
kết quả điều tra, mà buộc họ nhất nhất phải tố giác trực tiếp với cơ quan công
an.
4.
K. Marx, khi lược khảo về Chủ nghĩa Duy vật Pháp, có diễn giải
lại rằng:
Nếu con người không có tự do theo nghĩa duy vật, nghĩa là nếu
người ta có tự do không phải nhờ có lực lượng tiêu cực để lẩn tránh cái này cái
nọ, mà nhờ có lực lượng tích cực để phát huy cá tính của mình thì không nên
trừng phạt những tội lỗi trong cá nhân, mà nên tiêu diệt những nguồn phản xã
hội đẻ ra tội lỗi và đem lại cho mọi người một không gian xã hội cần thiết cho
sự biểu lộ căn bản của bản chất của mình. Nếu như con người là do hoàn cảnh tạo
nên thì phải tạo ra những hoàn cảnh hợp tính người. Nếu như con người, bẩm sinh
ra, đã có tính xã hội thì do đó chỉ có trong xã hội, con người mới có thể phát
triển bản tính thật sự của mình và lực lượng của bản tính con người phải được
đánh giá không căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực
lượng của toàn xã hội.[5]
Đúng vậy, suy cho cùng, mọi tội lỗi của con người, ngoài sự góp
phần của bản tính cá nhân, của gia đình và giáo dục, thì bối cảnh đóng vai trò
là căn nguyên xã hội. Bởi thế, trừng phạt triệt để nhất đối với tội lỗi của con
người là trừng phạt cái bối cảnh xã hội đã sinh ra tội lỗi đó.
Nói như vậy không có nghĩa là con người phải được miễn trừ mọi
trừng phạt, ở mọi tội lỗi. Hành động xuất phát từ bản tính cá nhân và những
hành vi hình sự có trong mọi bối cảnh, là những điều phải giá pháp lý.
Còn với những “tội lỗi” mà không thể tránh khỏi và trực tiếp
phát sinh từ cái bối cảnh phi lý, phi nhân của một xã hội, một giai đoạn lịch
sử, thì chính cái điều kiện đã bóp méo “căn bản của bản chất” con người, khiến
nó phải thể hiện một cách sai lệch, mới là cái cần phải được xử lý, điều chỉnh
triệt để cho “hợp tính người”, bởi lực lượng đã gây nên sai trái đó “phải được
đánh giá không căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực
lượng của toàn xã hội”.
Lấy sự
việc ở Ô Khảm làm minh chứng. Trục xuất chính quyền thôn,
chiếm cứ địa bàn, điều hành tự quản, biểu tình liên tục…, theo luật pháp xã hội
chủ nghĩa, rõ ràng là “chống chính quyền nhân dân” và “lợi dụng các quyền tự do
dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước…”, v.v và v.v… Nhưng qua sự kiên quyết
dấn thân của người dân, không một ai trong số họ bị xử lý hình sự, mà ngược
lại, chính quyền trung ương đã phải thức tỉnh: quyền dân chủ cơ sở được thật sự
trao lại cho người dân sở tại, Thủ tướng Ôn Gia Bảo thừa nhận nạn cướp đất và
kêu gọi bảo vệ nông dân.
Có cái kết quả “phi luật pháp”, “phi kỷ cương” như thế tại Ô
Khảm là bởi thực chất việc xử trí không phải ở chỗ dễ dàng và tùy nghi quy tội
người dân, mà ở chỗ dân hay quan được lấy làm gốc.
Những người có thẩm quyền có thể hất ngược lỗi về cho nông dân bị mất đất là
“không chấp hành” phương án đền bù giải tỏa, “không chấp hành” cưỡng chế; có
thể hất ngược lỗi về cho người dân đối với tiêu cực của công an, nhưng sự thật và nhân tâm
là những thứ mà sức mạnh cưỡng hành dù có thể áp đặt cũng không bao giờ có thể
thể định hình khách quan.
Đoàn Văn Vươn và Hoàng Khương, sắp tới
đây, dù về mặt pháp lý, có trở thành người mang án, thì về mặt xã hội và lịch
sử, họ vẫn là những anh hùng.
Vấn đề còn lại là quan hệ giữa cái tâm của lãnh đạo với nhân tâm
của người dân: xử ai và xử ra sao để minh bạch và đem lại công lý, để sự vụ
không trở thành vết thương trên cơ thể xã hội, bởi khi đó, cái sẹo dù có lành
cũng hằn lại vĩnh viễn trong lòng người.
Chú thích :
[1] Bài được viết trước ngày Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng họp về vụ việc (11/02/2012), mà trong kết luận có “yêu cầu” Hải Phòng “Chỉ đạo cơ quan
bảo vệ pháp luật khẩn trương đưa vụ án ‘giết người và chống người thi hành công
vụ’ ra xét xử công khai, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Kiến nghị các
cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo do các
quyết định không đúng pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng”.
[2] Dù vụ việc này, xảy ra ở xã Đại Hưng, Khoái
Châu, Hưng Yên, xuất phát từ tranh chấp dân sự, nhưng có nhiều điểm rất đáng
lưu ý, là đương sự đã nhiều lần kêu cứu đến các cơ quan pháp luật và chính
quyền nhưng vẫn bị cưỡng chế, để rồi phải tự đốt mình ngay khi đó, trước sự dửng dưng của các “lực lượng chức năng” hùng hậu.
Xin được đặt câu hỏi trước lương tâm công luận: cái chết thảm thương và uất ức
này có đáng lật lại và đi đến tận cùng công lý không?
[3] “Phóng viên không được tác động vào sự vật,
hiện tượng khiến nó thay đổi bản chất” là điều hoàn toàn đúng, nhưng nếu vận
dụng không đúng vào trường hợp Hoàng Khương, sẽ là công cụ rửa sạch tội cho
công an viên tiêu cực và trút hết tội sang Hoàng Khương. Vì khi vận dụng với
thái độ “cô lập”, cụm từ “thay đổi bản chất” đã mặc nhiên giả định là viên công
an bị “biến chất” bởi chính hành động của Hoàng Khương, chứ không phải người
này đã chủ động có tiêu cực.
[4] Cho rằng có băng ghi âm công an viên muốn
nhận hối lộ đã là đủ chứng cứ và Hoàng Khương nên dừng lại, là một ý kiến xa
rời thực tế Việt Nam. Có những chứng
cứ sống nhưng có
thể chối cãi, như trường hợp Nguyễn Thị Thanh Tuyền ghi âm của
kẻ gạ tình khi chồng chị đang bị tạm giữ. Đó là chưa kể khi chưa có chứng cứ
phạm pháp quả tang, với ưu thế từ công tác của mình, công an viên tiêu cực có
thể diễn giải những lời nói đó là sự “nhập vai” của mình để chống tội phạm.
[5] Marx – Engels Tuyển tập, I, Nxb Sự thật , Hà
Nội, 1980, tr 174.
© 2012 Lê Tuấn Huy & pro&contra
No comments:
Post a Comment