Friday, 28 December 2012

NHÂN CÁCH & TÀI NĂNG CỦA NHÀ VĂN MẬU DỊCH (Hữu Lý phỏng vấn Nguyễn Hoàng Đức)




Hữu Lý phỏng vấn Nguyễn Hoàng Đức
29/12/2012

.
PV: Thưa anh Nguyễn Hoàng Đức, bài trước chúng ta có đề cập đến văn học mậu dịch, nói chung là hàng đồng loạt kém chất lượng. Như vậy có thể võ đoán quá chăng? Khi nói về tài năng và nhân cách của những người khác, đặc biệt là các nhà văn, nhà thơ phải chăng cũng cần rất thận trọng?

NHĐ: Tại sao lại không thận trọng?! Câu nói “phở mậu dịch, kịch ti vi” đâu có phải của tôi, mà của giới văn bút, của nhân dân và xã hội đấy chứ. Ngày nay, khi toàn bộ xã hội đã đổi mới gần ba mươi năm, trong khi cơ chế bao cấp của văn học mậu dịch vẫn dậm chân tại chỗ, chẳng phải giới văn học tem phiếu là lực lượng văn bút nhưng lạc hậu nhất xã hội sao? Vả lại cả xã hội đang muốn thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp bởi lý do nhà nước không thể ôm đồm làm tốt được việc kinh tế, nhà nước chỉ nên quản lý thôi. Chỉ có để cho kinh tế tư nhân phát triển thì kinh tế toàn quốc mới tăng trưởng. Để không võ đoán dẫn đến cái nhìn lệch lạc bất công, hôm nay tôi nghĩ chúng ta nên bàn thật sâu mang tính nguyên lý về cái gọi là nhà văn mậu dịch.

PV: Hay quá, thế thì còn gì bằng! Tôi xin lắng nghe!

NHĐ: Tôi xin kể một câu chuyện thực 100%, nó rất giản dị nhưng ngay cả nếu được lựa chọn hay bỏ phiếu vẫn khó có cái gì cướp được giải quán quân của nó. Nó hiện diện như một phép lạ.

PV: Tôi hồi hộp quá! Nó như thế nào?

NHĐ: Hồi cuối những năm tám mươi thế kỷ trước, có một quán phở ở ngay phố Ngô Quyền nơi gần giáp phố Tràng Tiền (nếu tôi nhớ không nhầm). Đó là quán đặc trưng mậu dịch, với khách hàng lờ phờ ra vào, nhân viên lừ đừ đi lại, một mùi ẩm mốc như thứ gì bị ruồng bỏ, hoang vắng như sa mạc. Nói ngắn gọn: một cửa hàng ở nơi đắc địa bậc nhất mà rất điêu tàn. Để cứu vãn cửa hàng đó đã mời một chuyên gia bán phở ở ngoài tới làm cửa hàng trưởng kỹ thuật (tất nhiên cửa hàng trưởng thật phải là bí thư chi bộ và được nhà nước ban cho con dấu). Mọi người kể câu chuyện về chuyên gia này mắt trố ra vì kinh ngạc, những người nghe mắt cũng mở to không kém. Đó là chuyên gia này đặt ra yêu cầu: nồi nước dùng cho 500 bát phở chẳng hạn, nó được cho vào bao nhiêu cân xương loại nào, bao nhiêu mì chính, bao nhiêu muối và nước mắm. Khi bán hết 500 bát, sẽ không có chuyện đổ nước lã thêm vào nồi. Có nhiều lần, khi vài người xếp hàng đến lượt thì hết nước dùng, họ năn nỉ hãy đổ nước lã vào bán thêm cho họ mấy bát thôi mà, “vì dù có đổ thêm nước lã, phở của ông vẫn ngon hơn phở người khác”. Chuyên gia nấu phở thẳng thắn trả lời “tôi không thể làm được việc đó, mấy đồng lãi của vài bát phở không thể đổi lấy uy tín một đời của tôi”. Trời ơi, câu chuyện quả là huyền thoại. Huyền thoại thứ nhất, đó là người bán phở cũng đòi sống danh dự như chữ “tín” thường hằng. Huyền thoại thứ hai, mọi người giật mình vì lần đầu người ta được đánh động về “định tính và định lượng”. Cái lâu nay chẳng hề có khái niệm mà tất cả mọi người đều nghĩ, xếp hàng đến nơi được mua là may lắm rồi! được xin cho là may lắm rồi! ai dám nhà nghèo còn đòi xôi gấc. Câu chuyện thật giản dị, nhưng ngay đến bây giờ tôi vẫn tin nó có giá trị như một huyền thoại.

PV: Câu chuyện đó có liên quan gì đến ngày nay không?

NHĐ: Sao lại không, nhiều đằng khác! Chẳng hạn như chuyện của Hội nhà văn Việt Nam, mỗi năm có nửa nghìn người đòi vào Hội, người ta xét được vài chục người. Sự kết nạp đó dựa trên định lượng và định tính nào? Và có bao nhiêu người vào hội phải kèm theo đôi giầy Italia, vé du lịch ăn chơi tỉnh nhà, rồi thứ vốn giời trồng được. Nhà thơ kia năm ngoái được bỏ 14 phiếu nhưng xướng lên là zero to tướng, năm nay lên đầu bảng vì sợ bị kiện. Có người phản pháo lại đó là tin thất thiệt vậy việc trước kia nhà văn Hồ Anh Thái, dự giải, lúc sơ khảo được hầu hết phiếu, lúc chung khảo lại rớt thì sao? Còn thình lình một ông ngang nhiên bước vào phòng hội đồng xét tuyển nữa, ông vào với tầm vóc gì hay là có khả năng can thiệp? Tóm lại, từ giải thưởng, đến kết nạp hội viên, chẳng có định tính, định lượng gì. Đã đến lúc nên nói: chính ban giám khảo phải được “kết nạp” trước khi chấm người khác. Nếu ông là phở mậu dịch ninh thuốc bắc vài chục nước liệu có thể nếm được món yến sào không? Ông là kèn lá thổi tì tèo trên miệng chưa hết một bài đã héo quắt lại, ông lấy thước đo nào để đo giàn hợp xướng?

PV: Hình ảnh tổng quát của mậu dịch là gì?

NHĐ: Tổng quát nhất, đó là cảnh xếp hàng. Xếp hàng có khi chỉ để mua nước lã tráng qua hàng xương. Nhưng vẫn phải xếp hàng, vì chỉ có xếp hàng thì cái cửa hẹp chen chúc mới đẻ ra quyền hành. Chẳng hạn, đóng dấu công chứng là thứ hiển nhiên nhưng cũng bị bắt xếp gạch rồng rắn, từ đó mới có cò công chứng. Tại cửa Hội nhà văn mới đây, người ta không thể cãi nổi việc có rất nhiều cò bu đen bu đỏ đòi “giúp đỡ” đánh quả. Và xếp hàng cũng tạo ra những hứa hẹn, nào “hãy đợi đấy”. Trước kia, vé xe vừa bán đã hết vì người ta tuồn vé cho con phe để hai bên cùng xơi. Ngày nay cũng chẳng khác mấy, có xếp hàng thì mới thấy độ quan trọng của quyền lực, mới có hứa hẹn, mới có sắp xếp. Hẹn đợt này thì phải sang năm. Hẹn sang năm thì lùi thêm vài năm nữa…

PV: Anh từng nói sáng tạo văn học là cái thuộc tư duy cá nhân. Tại sao nhiều người lại hám vào Hội đến thế, việc vào đó có làm cho văn của họ lớn lên đâu?

NHĐ: Tôi vừa bàn việc này với nhà thơ Lương Tử Đức. Anh ta khá thạo món Trung Hoa học. Anh có nói: Người Trung Quốc quan niệm, trong lục súc tranh công, tức muôn loài tranh công thì có 4 nấc:
1- Thấp nhất là loại tranh ăn. Giống muông thú rồi người ta cạnh tranh nhau giành miếng ăn để sinh tồn, hay như người Việt nói “ghen vợ ghen chồng không nồng bằng ghen ăn”.
2- Cao hơn một tí, nhưng vẫn thấp là loại tranh công danh. Là người mong có tí danh ở đời như “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Nhưng loại cầu danh để kiếm lợi như hội viên ở tỉnh có khi xin được nhà, ở trung ương thì gần gũi nên làm cò để đánh chặn đứa ở xa về.
3- Loại cao hơn là tranh làm. Đó là những người tranh làm việc khó, để người khác được nhàn. Người Việt nói “thế gian chuộng của chuộng công, nào ai có chuộng người không bao giờ”.
Xét vào giới thơ thẩn Việt thấy rõ một điều là hầu hết họ chỉ tranh nhau làm việc dễ, một bài thơ mấy câu làm trong mấy chốc, rồi thì cũng thi thố, đội vòng nguyệt quế, rồi vào hội để mơ ngày chấm người khác, hay làm cò đánh chặn?
4-Loại cao nhất là tranh khổ, như chúa Jesus tranh đóng đanh trên thập giá để cứu chuộc loài người, Đức Phật ngồi trơ xương dưới gốc bồ đề để tạo ra con đường giác ngộ chúng sinh, hay thánh Gandhi chân trần áo thụng lăn xả vào gươm giáo để đòi độc lập cho dân Ấn Độ…
Xét vào các nhà văn thơ mậu dịch, thì họ mới chỉ có vài tác phẩm ăn theo tuyên truyền, hội hè nức nở chúc tụng vui vầy, đâu có thấy những cơn trăn trở của bất công đau khổ, như chính họ đã thú nhận “chúng ta không có tác phẩm ngang tầm thời đại, chỉ có bé và vừa”. Vừa rồi có người còn thú nhận “chúng ta chỉ là tép”. Mậu dịch chỉ có phở nước nhạt! Và có thể nói, mậu dịch cũng chỉ có thể tạo ra những con tép văn chương. Những con chim sẻ vào hội bay theo đàn mà không thể là đại bàng bay cô độc. Đó là một giàn quen hát đồng ca, khó mà tìm thấy một người biết hát đơn ca.

PV: Theo anh trình độ văn học của mậu dịch ở cấp nào?

NHĐ: Tất nhiên ở mức tranh công danh rồi, họ đâu có thể tranh việc làm bởi vì phóng sự bây giờ rất thiếu, họ không muốn viết cái gì phải vất vả, họ đâu có thể tranh khổ, vì họ muốn được “thích đủ thứ” mà.

PV: Nếu thế thì khó mà có tác giả và tác phẩm lớn?

NHĐ: Câu hỏi đó đã là câu trả lời rồi.

PV:Cám ơn anh, đề tài này tôi nghĩ vẫn còn nhiều cái để nói.

NHĐ: Tất nhiên! Chúng ta đã bàn về vấn đề nguyên lý đâu.

PV: Hẹn anh lần sau. Xin cám ơn!
.
Hữu Lý thực hiện 28/12/2012

Tác giả gửi đến Nguyễn Tường Thụy's Blog qua email





1 comment:

View My Stats