Công trình giảng dạy
Phật pháp của Thầy Thiện Châu
Trịnh Đình Hỷ
Chim
Việt Cành Nam
http://chimviet.free.fr/thoidai/trinhnguyenphuoc/tnp_PhatPhapCuaThayThienChau_a.htm
Tôi xin phép được chia
sẻ với quí vị một số nhận xét và cảm nghĩ về công trình giảng dạy về Phật pháp
của Thầy Thiện Châu, trong khoảng thời gian 32 năm, từ 1966 tới
1998, tại Âu châu.
Vào
những năm 1960, chỉ có một số ít tăng sĩ VN được đi du học và giảng dạy ở nước
ngoài. Trong số đó có Thầy Minh Châu, đi du học tại Sri Lanka rồi Ấn
Độ, tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Nalanda, sau trở về
Sàigòn thành lập Viện ĐH Vạn Hạnh, rồi Viện Nghiên cứu Phật học VN.
Thầy Thiện Châu, đi du học tại Nalanda, London và
tốt nghiệp Tiến sĩ Triết học và Văn chương tại Đại học Paris Sorbonne.
Thầy Nhất Hạnh, giảng dạy tại các Đại học Princeton và Columbia,
Hoa Kỳ, sau về gần Bergerac, Pháp, phát triển dòng Tiếp hiệnLàng Mai.
Thầy
Thiện Châu tại Trại Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử , Tổ Đình Tây Thiên, Huế,
1959
Nhờ
kinh nghiệm tu học ở nước ngoài mang lại một cái nhìn lịch sử và chính xác hơn
về đạo Phật, cho nên cả ba Thầy đều ý thức được sự cần thiết chấn hưng Phật
giáo, trở về với giáo lý cội nguồn, đồng thời hiện đại hóa đạo Phật, thay vì
thu mình trong các nghi lễ tín ngưỡng cổ truyền. Thầy Minh Châu bằng cách nâng
cao ngành giáo dục PG qua sự phát triển viện ĐH Vạn Hạnh và các viện Phật học;
Thầy Thiện Châu bằng cách xiển dương một đạo Phật trung thực, giản dị, dễ hiểu
cho các Phật tử tại Âu châu; Thầy Nhất Hạnh bằng cách phổ biến rộng rãi phương
pháp " chánh niệm ", nhằm chuyển hóa tâm thức mỗi người, trong đời sống
hàng ngày.
Trong
những năm 60, ngoại trừ một vài huynh trưởng Phật tử đã từng hoạt động tại VN,
đa số chúng tôi là những sinh viên mới sang du học tại Pháp, Đức, Thụy Sĩ hoặc
Bỉ, ngây thơ chẳng biết gì về đạo Phật. Đạo Phật của chúng tôi thực tình đã được
khai sáng bởi các Thầy, và đặc biệt Thầy Thiện Châu, là người hướng dẫn và
thành lập nên Liên đoàn SVPT Âu châu, Hội PTVN tại Pháp và Trúc Lâm Thiền viện.
Điều
đầu tiên mà Thầy dạy cho chúng tôi và tất cả những ai muốn tìm hiểu về đạo Phật,
là đạo Phật là một con đường trí tuệ, dựa lên sự hiểu biết và thực hành con đường
vạch ra bởi đức Phật. Và đức Phật là một người Thầy, đã tìm ra, chứng nghiệm và
chỉ dạy con đường đó cho tất cả những ai muốn đi theo ngài. Con đường đó là con
đường chánh 8 nẻo, với 3 môn học " giới, định, huệ ", nhằm giải thoát
khỏi khổ đau, tiêu tan phiền não, lậu hoặc và đem lại thanh tịnh, an lạc.
http://chimviet.free.fr/baivo/trinhnguyenphuoc/tnp_PhatPhapCuaThayThienChau/69qd11cGT.jpg
Lễ
Tuyên Hứa (1969) - Đoàn Sinh Viên Phật Tử VN tại Pháp
http://chimviet.free.fr/baivo/trinhnguyenphuoc/tnp_PhatPhapCuaThayThienChau/69tduc003.jpg
Lễ
Tuyên Hứa (1969) - Đoàn Sinh Viên Phật Tử VN tại Tây Đức
Khác
với các tôn giáo thần khải như Ấn Độ giáo, Ky Tô giáo, Hồi giáo, đạo Phật không
cần đến đức tin. Đúng hơn, người Phật tử tin tưởng (tiếng
pali gọi là saddhā) nơi con đường và người dẫn đường, chứ không phải sùng
tín (pali là bhakti) Thượng Đế, các thần linh, hay một thế
lực siêu nhiên nào. Trong tinh thần đó, Thầy nhắc nhở cho chúng tôi lời Phật dạy
trong Kinh Đại Bát Niết Bàn pali: " Hãy tự mình là hòn đảo,
là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa vào chính mình, chớ nương tựa
vào một nơi nào khác ". Và trong Kinh Pháp Cú (1):
" Hãy tự mình cố gắng, Như Lai chỉ là thầy (câu 276).
" Tự mình làm điều ác, Tự mình sanh nhiễm ô, Tự mình không làm ác, Tự mình
thanh tịnh mình. Tịnh hay không, do mình, Không ai thanh tịnh ai. "(câu
165).
Như
vậy, điều cốt yếu phải hiểu là: đạo Phật là một con đường giải thoát;
nhưng không phải giải thoát bởi một thế lực bên ngoài, mà là giải thoát bởi
chính mình, tự mình giải thoát, tự mình giải
phóng khỏi những ràng buộc do mình tạo nên. Vào thế kỷ thứ 5- thứ 6 trước CN tại
Ấn Độ thời bấy giờ, thống trị bởi truyền thống Veda vàđạo Bà
La Môn, đạo Phật xuất hiện như một tư tưởng hoàn toàn mới mẻ và cách mạng,
đặt con người trước trách nhiệm của mình, và đặt tin tưởng nơi con người.
Có
hai bài giảng của đức Phật mà Thầy thường kể lại, gây nên một ấn tượng sâu sắc
cho chúng tôi: đó là ẩn dụ "mũi tên độc", và lời dạy của đức Phật cho
dân làng Kalama.
Hình
: http://chimviet.free.fr/baivo/trinhnguyenphuoc/tnp_PhatPhapCuaThayThienChau/66vh09c.jpg
Khi Malunkyaputta(2),
một đệ tử hỏi ngài tại sao không trả lời về các câu hỏi siêu hình như " vũ
trụ hữu hạn hay vô hạn trong không gian và thời gian, Như Lai sau
khi chết có còn hay không, và linh hồn và thể xác là một hay khác nhau ",
thì ngài lấy thí dụ của một kẻ bị bắn một mũi tên độc, không chịu cho chữa chạy
nếu không được biết mũi tên bắn từ đâu, với cây cung làm bằng gỗ nào, người bắn
tên là ai, vì lý do nào lại bắn, v.v., thì người đó chắc chắn sẽ chết trước khi
nhận được các câu trả lời. Đức Phật luôn luôn gạt bỏ những câu hỏi siêu hình,
không những không thể trả lời được, mà chỉ làm mất thời giờ, không ích lợi gì
cho sự giải thoát.
Còn
đối với người dân làng Kalama (3),
thắc mắc không biết nên tin vào lời thuyết giảng của ai, thì đức Phật dạy:
"Này các vị Kalama, các vị đừng tin vì nghe lời truyền khẩu, đồn
đại, đừng tin vì đó là truyền thống, được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý
luận, suy diễn, đừng tin vì hợp với định kiến, đừng tin vì vẻ có uy quyền, đừng
tin vì đó là lời thầy mình. Nhưng khi nào các vị tự mình biết rõ: 'Các điều này
bất thiện; các điều này đáng chê; các điều này nếu được chấp nhận và thực hiện,
sẽ đưa đến bất hạnh, khổ đau', thì các vị hãy từ bỏ chúng. Khi nào các vị tự
mình biết rõ: 'Các điều này là thiện; các điều này đáng khen; các điều này nếu
được chấp nhận và thực hiện, sẽ đưa đến an lạc, hạnh phúc', thì các vị hãy dựa
vào chúng". Trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, chỉ có đức Phật mới nói
lên điều đó: đừng vội tin ngay cả vào ta, vị thầy của các người, nhưng hãy tự
mình kiểm chứng!
Hai
bài học này tỏ rõ tinh thần phê phán, thực tiễn và thực nghiệm của đạo Phật.
Nói theo danh từ triết học Tây phương, thì đạo Phật là một hiện tượng học (phénoménologie),
chứ không phải là một bản thể học (ontologie). Đức Phật
chỉ đặt trọng tâm vào một hiện tượng, là hiện tượng khổ, cũng như lời
ngài nói trong Kinh Trung Bộ(4):
" Như Lai chỉ dạy một điều: sự khổ đau và sự chấm dứt khổ đau " và
trong Kinh Phật Tự Thuyết(5):
" Cũng như nước các đại dương chỉ có một vị mặn, Giáo pháp chỉ có một vị,
đó là vị giải thoát ".
Vì
đạo Phật là một con đường trí tuệ, cho nên Thầy chủ trương bài trừ
mê tín, dị đoan, bói toán, bùa phép, đồng bóng, tin vào linh hồn, ma quỷ, là những
truyền thống dân gian lạc hậu, không liên quan gì đến đạo Phật. Thầy giải thích
" cầu siêu " chính là " cầu an " cho gia đình tang quyến,
nhằm xoa dịu nỗi thương đau và mang lại an tĩnh cho những người còn lại.
Nghi
lễ tụng niệm chính là dịp để người Phật tử hiểu rõ hơn về đạo Phật, vì thế cho
nên Thầy chủ trương tụng niệm bằng tiếng Việt, thay vì tiếng Hán do ảnh hưởng
lâu đời của Trung quốc, và đọc những bài Kinh căn bản, dễ hiểu, như các
Kinh Chuyển Pháp Luân, Vô Ngã Tướng, Từ Bi, Chơn Hạnh phúc, và
đặc biệt Kinh Pháp Cú (1),với những câu kệ giản
dị, dễ hiểu, và gần nhất với lời Phật dạy. Chẳng hạn như câu: " Dầu tụng
trăm câu kệ, Nhưng không có lợi ích, Chẳng bằng một câu Pháp, Nghe xong được tịnh
lạc "(câu 102).
Đa
số kinh Thầy trích giảng là thuộc Bộ Kinh (Nikaya) hệ
pali, cho nên có người đặt câu hỏi là tại sao đạo Phật VN chủ yếu là Ðại
Thừa, mà Thầy lại có vẻ theo Tiểu Thừa (hay là Nguyên
Thủy) hơn?
Trong
bài " Tam Bảo là chuẩn đích cho phát triển Phật Giáo Việt Nam " (6),
trình bày trong một Hội thảo năm 1996, Thầy có nói : " Chúng ta quan niệm
đạo Phật là một cây lớn; chúng ta không chia phần gốc là quan trọng, hay phần
cành là quan trọng.(…) Vì vậy chúng ta không phân biệt Ðại thừa, Tiểu
thừa, ngay cả Nhất thừa, cho đến Tối Thượng thừa chúng
ta cũng không nói đến; chỉ nhắc đến giáo pháp của Phật là phương pháp đạo lý để
giải thoát và giác ngộ, tùy theo căn cơ mình tu tập. "
Tuy
nhiên, trong bài giới thiệu " Kinh Sa môn Chơn chánh " (7),
thuộc " Tiểu Bộ Kinh ", Thầy cho rằng quan điểm
" ngũ thời bát giáo ", phân chia lời Phật dạy ra làm
5 thời kỳ (Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa - Niết Bàn)
của một cổ đức Trung quốc (tức là ngài Trí Giả) " không phù hợp
với lịch sử tư tưởng Phật giáo và nhất là hoàn toàn sai với lịch trình thuyết
pháp của Phật... Sự sai lầm lớn nhất là xem nội dung A Hàm là
thấp kém (gọi là Tiểu thừa), và nội dung Pháp Hoa, Niết
Bàn, là cao nhất (gọi là Tối Thượng thừa) ".
Thầy
còn tiếp: " Các cổ đức Trung quốc là những bậc lão thông kinh điển, nhất
là kinh điển phát triển Ðại Thừa, song rất thiếu sót về quan niệm lịch
sử, nhất là lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ. (…) Chúng ta không có gì để phiền trách
các vị cổ đức. Ðiều đáng phê bình là các học giả Phật học sau này, Trung quốc
cũng như Việt Nam, sau khi đã tiếp xúc với Ấn Ðộ và Phật giáo Nguyên thủy, vẫn
còn duy trì những sự hiểu biết cổ kính sai lầm như cách phán giáo ấy.
Quan
niệm lệch lạc về lịch sử tư tưởng Phật giáo này đã gây nên hậu quả nguy hiểm là
khinh rẻ giáo lý căn bản do chính Phật thuyết trong 45 năm, trái lại ham chuộng
kinh điển phát triển về sau. Thậm chí, có những tôn phái chủ trương chỉ đọc tụng
một bộ Kinh Pháp Hoa hay chỉ cần (...) tụng niệm câu "Nam
mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh" là cũng đủ thành Phật! (…) Như thế, đối với
chúng ta, tất cả gia tài giáo lý mà chúng ta có được đều là vô giá, song điều cần
thiết khi đọc kinh là phân biệt kinh nào là kinh Phật, kinh nào là kinh Tổ.
"
Thầy
cũng giải thích tại sao Thầy đặt trọng tâm vào đức Phật Thích Ca:
" Nhiều khi quá khoan hòa chúng ta quên mất ý niệm lịch sử; vì vậy, có nhiều
người đi chùa mà không biết Phật là ai, ai là người lập ra đạo Phật. Có Nam
mô Phật, có Nam mô A Di Ðà Phật, có Nam mô Ðấu Chiến Thắng
Phật,... nhưng quên mất và cũng không hiểu rõ rằng người sáng lập ra đạo Phật
là đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.(…) Trong thời đại khoa học này,
chúng ta phải tập trung làm sáng tỏ đức Bổn sư của chúng ta, vì đức Bổn Sư quá
đẹp, quá cao, quá siêu việt.
Chúng
ta có thể thờ tất cả các vị Bồ Tát, nhất là Bồ Tát Quan Thế Âm,
nhưng đừng để những đức tánh của các vị Bồ Tát hay hình tượng các ngài che lấp
ánh sáng đức Bụt của chúng ta.(…) Trong Phật giáo bây giờ có hiện tượng là nhiều
khi có chùa mà không thờ Phật, hoặc thờ Phật mà không được rõ ràng, không được
chú tâm tới đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Vì vậy, cũng đừng lấy
làm lạ khi có người nghi ngờ tôi không phải là tu sĩ, người ta tới chùa không
thấy tôi niệm A Di Ðà Phật. Tôi biết đức Phật A Di Ðà rất
quý, rất đẹp, là một nơi cho nhiều người quy hướng, nhất là về tuổi già và hy vọng
cho đời sau. Nhưng tôi không niệm A Di Ðà Phật vì tôi muốn cố
ý làm cho đức Bổn Sư lịch sử, cũng như hình tượng ngài được nổi lên rõ ràng, để
chúng ta theo đó mà tu hành. "
Để
trả lời lá thư một Phật tử (8) đặt
câu hỏi tại sao lại tụng kinh Chơn Hạnh Phúc, kinh Từ
Bi mà không tụng kinh A Di Đà, Phổ Môn, Thầy viết như sau:
" Tôi xin nói rõ rằng tôi không hề ngăn trở việc tụng các kinh này, nhưng
tôi chỉ khuyến khích những người nào hiểu nghĩa và quen tụng các kinh nầy nên tụng
riêng ở nhà. Không cần nói đến tính cách tông phái của nó: kinh A Di Ðà thích
hợp với người theo tông Tịnh Ðộ, kinh Phổ Môn thích
hợp cho những người tin tưởng Bồ Tát Quan Âm (…) Trong khi đó,
kinh Chơn Hạnh Phúc và kinh Từ Bi là những kinh
ngắn, hay, căn bản cho tất cả Phật tử và cũng là những kinh do chính đức Phật
đã nói ra. "
Còn
về câu hỏi tại sao Thầy lại cho tụng Ba qui y, Năm giới bằng
tiếng pali mà không tụng chú Ðại bi, chú
Chuẩn đề như ai cũng làm bên nhà, thì Thầy trả lời: " Sở dĩ Phật
tử bên nầy tụng Ba qui y, Năm giới là vì chính Hội Phật
giáo Liên hữu Quốc tế đã quyết định: "Phật tử nên tụng Ba
qui y, Năm giới trước các buổi lễ Phật và các cuộc hội họp".
Và họ tụng bằng tiếng pali là để gây tinh thần đồng nhất không
những giữa các Phật tử Nam Tông, Bắc Tông Việt Nam mà cả giữa các Phật tử Pháp,
Đức, Anh, Lào, Miến Điện, Tích Lan, v.v. Ba qui y, Năm giới là
những điều căn bản mà bất cứ Phật tử ở nơi nào, thuộc tông phái nào, cũng đều
phải biết. Còn các bài thần chú chỉ có người Phật tử theo Mật tông mới
tụng mà thôi. Ðó là không nói đến điều không chính xác do sự phiên âm từ tiếng
Phạn sang tiếng Hán và được đọc ra bằng tiếng Việt. Hơn nữa các bài chú nầy
không thể giảng nghĩa. "
Trong
sự tu tập, thiền định đối với Thầy rất quan trọng, vì đó là một trong ba môn học
để đánh tan lậu hoặc. Cũng như trong Kinh Pháp Cú có
câu: "Không có tuệ, không định. Không có định, không tuệ. Người có định,
có tuệ, Đạt Niết bàn viên tịnh "(câu 372). Thầy
thường khuyến khích tất cả mọi người nên thực hành thiền định đều đặn, theo lời
dạy của đức Phật trong Kinh Tứ Niệm Xứ hay Kinh Niệm
Hơi Thở. Và đặc biệt đối với chúng tôi, các trí thức Phật tử có khuynh hướng
học Phật trong sách vở hơn là thực hành. Bao nhiêu năm đã qua, nhưng kỷ niệm của
các buổi ngồi thiền, sáng sớm trên cánh đồng ở các trại hè, vẫn còn sâu đậm
trong ký ức của chúng tôi. Sau này, nhờ các tiến bộ đột phá của khoa học thần
kinh và các áp dụng y khoa của thiền chánh niệm (mindfulness),
thiền định đã trở thành một phương pháp tập luyện tâm-thân (mind-body)
được hưởng ứng mạnh mẽ trong xã hội Tây phương hiện đại.
http://chimviet.free.fr/baivo/trinhnguyenphuoc/tnp_PhatPhapCuaThayThienChau/95HoiThaoHXH.jpg
Thầy
Thiện Châu và GS Hoàng Xuân Hãn - Hội Thảo " Phật Giáo và Thời Đại"
http://chimviet.free.fr/baivo/trinhnguyenphuoc/tnp_PhatPhapCuaThayThienChau/95HoiThao_PGTD_098.jpg
Hội
Thảo " Phật Giáo và Thời Đại"
(Pháp,10-9-1995)
Nói
tóm lại, Thầy Thiện Châu trong suốt cuộc đời hoằng pháp của Thầy,
đã xiển dương một đạo Phật chân thực, thuần túy, trung thành với lời dạy của đức
Phật Thích Ca. Một đạo Phật không hoa mỹ, hào nhoáng, nhưng trong
sáng, giản dị, dễ hiểu, có thể áp dụng được bởi tất cả những ai đi tìm một giá
trị tâm linh, một triết lý sống, một nền đạo đức, một tâm lý trị liệu, làm cho
tâm thức bớt phiền não, thêm an lạc và hạnh phúc.
Cuối
cùng, bài học của Thầy cũng chính là tác phong của Thầy, một con người bình dị,
khiêm cung, gần gũi với mọi người, với lời nói nhẹ nhàng và nụ cười hiền hậu.
Trong các bài thơ làm trên sườn đồi Trúc Lâm Villebon, Thầy tự ký tên là "
người làm vườn ". Chẳng hạn như trong bài " Mai am ":
" Sương
núi phủ am lạnh,
Nhạc nước vẫn reo đều,
Sư già vui tĩnh tọa,
Trên đồi chim, sóc kêu. "
Hình
ảnh và tấm gương của Thầy Thiện Châu, một vị chân tu, trí tuệ trong
sáng và đức độ cao dày, vẫn còn phảng phất đâu đây. Mặc dù Thầy đã đi qua, và
các đệ tử của Thầy cũng lần lượt đi qua, nhưng các lời dạy thấm thía của Thầy
còn vang vọng mãi trên sườn đồi Trúc Lâm.
Để
tưởng nhớ đến Thầy, xin chúng ta cùng nhau đọc câu đảnh lễ đức Thế
tôn bằng tiếng pali, như Thầy thường đọc :
Namo
tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa !
Kính
lễ đức Thế tôn, bậc giải thoát, giác ngộ hoàn toàn!
Trịnh
Đình Hỷ,
Pháp danh Nguyên Phước
---------------------
Tài liệu trích dẫn
(1).
Kinh Pháp Cú (Dhammapada), thuộc Tiểu Bộ (Khuddaka-nikaya)
Hiểu đạo Phật một cách giản dị bằng Kinh Pháp Cú (Dhammapada)
Trịnh Nguyên Phước, Nguyên Đạo :
http://www.truclamthienvien.fr/index.php/tailieu/115-kinhphapcu
(2). Tiểu
kinh Malunkya (Cula-malunkya sutta), thuộc Trung Bộ (Majjhima-nikaya, 63)
Thích Minh Châu dịch : http://cusi.free.fr/dtk/trungbo/trung063.htm
(3).
Kinh Kalama, thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttara-nikaya,
I, 188-193)
Thích Thiện Châu, Kinh Kalama : http://cusi.free.fr/gtk/gtk0054.htm
(4).
Kinh Trung Bộ (Majjhima-nikaya, I, 140, 22)
(5).
Kinh Phật Tự Thuyết (Udana, 67)
(6).
Thích Thiện Châu, " Tam Bảo là chuẩn đích cho phát triển Phật Giáo Việt
Nam ", bài trình bày trong Hội thảo " Hướng phát triển Phật Giáo Việt
Nam ", ngày 8/9/1996, tại Trúc Lâm Thiền Viện, Villebon s/Yvette.
http://cusi.free.fr/pgtd/chp0050.htm
(7) Thích
Thiện Châu, " Kinh Sa môn Chơn chánh " :
http://cusi.free.fr/gtk/gtk0055.htm
(8) Thích
Thiện Châu, " Trả lời thư của một Phật tử ", Báo Tin Phật, số 13,
ngày 14/3/1970
HÌNH
: http://chimviet.free.fr/baivo/trinhnguyenphuoc/tnp_PhatPhapCuaThayThienChau/01.jpg
No comments:
Post a Comment