Vinod Thomas - Fulcrum
Đỗ
Kim Thêm dịch
30/03/2024
Các
cam kết về tăng trưởng xanh của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào việc mở rộng
năng lượng tái tạo và thay thế than đá. Đất nước cần nắm bắt các cơ hội tốt
đang có trong tay để quản lý việc chuyển đổi với một kế hoạch rõ ràng và một nền
hành chính hiệu quả, không tham nhũng.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/03/1-102.jpg
Không
ảnh chụp ngày 25/9/2022 về các tấm pin mặt trời tại nhà máy điện mặt trời Sao
Mai, tỉnh An Giang. Nguồn: AFP
Khi
Việt Nam muốn trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, yêu cầu cấp bách về tăng trưởng xanh hơn ngày càng rõ rệt. Các lĩnh vực lớn của
ngành công nghiệp và nông nghiệp đang bị đe dọa bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam
được xếp vào nhóm một trong những nước dễ bị lũ lụt nhất hành tinh.
Tương
tự, đất nước này cũng sở hữu những cơ hội độc đáo để chuyển đổi nhanh ngành
công nghiệp và nền kinh tế nói chung, từ con đường dùng nhiều carbon hiện tại,
sang một giải pháp thay thế xanh hơn và bền vững hơn. Như M. Mani, trưởng kinh
tế gia về môi trường ở khu vực Đông Nam Á của Ngân hàng Thế giới, gần đây đã
nói với tác giả rằng: “Sử dụng năng lượng tái tạo vẫn là chìa khóa cho
việc cam kết của Việt Nam đối với sự chuyển đổi cần thiết sang nền
kinh tế dùng ít carbon hơn“.
Tăng
trưởng xanh bao gồm các hoạt động kinh tế nhằm mang lại lợi ích xã hội về lâu
dài, chứ không chỉ mang lại lợi ích tài chính trong ngắn hạn. Chính sách công
nghiệp xanh tạo điều kiện giảm thiểu biến đổi khí hậu bằng cách khử cacbon cho
các hoạt động kinh tế. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trong giai đoạn
2021-2030 của Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2021 và Quy hoạch
phát triển điện VIII (PDP8) chứa đựng các nguyên tắc của nền kinh tế dùng ít
carbon, nhưng cần được tuân theo bằng hành động.
Ngân
hàng Thế giới ước tính, biến đổi khí hậu ở Việt Nam có thể tiêu tốn khoảng 3,2%
GDP (2020) và có thể tăng từ 12% đến 14,5% GDP vào năm 2050, nếu không có biện
pháp giảm thiểu cũng như thích ứng nghiêm túc. Ở mức 1,6 kg CO2/đô la Mỹ, cường
độ carbon trong việc xuất khẩu Việt Nam thuộc vào hàng cao nhất trong khu vực.
Trong khi Việt Nam hiện nay chỉ đóng góp 0,8% tổng lượng khí thải của thế giới
trong giai đoạn 2000-2015, lượng khí thải carbon đã tăng gấp bốn lần. Khí thải
đang làm mức độ ô nhiễm không khí độc hại trầm trọng hơn, đặc biệt ở Hà Nội.
Trong
khi chính sách kinh tế hoặc công nghiệp xanh bao gồm các tín hiệu trên toàn nền
kinh tế, việc chuyển đổi năng lượng là lợi thế hàng đầu. Cắt giảm việc sử dụng
nhiên liệu hóa thạch là thành phần chính của nó, được kích hoạt bằng cách thúc
đẩy năng lượng tái tạo trong năng lượng (cũng như trong giao thông vận tải và
các lĩnh vực khác). Năng lượng tái tạo [được sử dụng ở Việt Nam] hiện nay chỉ
chiếm 13,5% sản lượng điện, trong khi thủy điện chiếm 29% và than tới 45,7%.
Việt
Nam có tiềm năng khổng lồ về năng lượng tái tạo, vì đây là quốc gia có thiên
nhiên phù hợp nhất ở Đông Nam Á để phát triển năng lượng gió và mặt trời, với
tiềm năng kỹ thuật khoảng 1.000 gigawatt. Thật vậy, sản xuất năng lượng tái tạo
đã tăng gần 40 lần từ năm 2018 đến năm 2022. Tuy nhiên, nước này phải đối mặt với
tình trạng thiếu điện và mất điện vì thời tiết khắc nghiệt, và các nhà máy thủy
điện đạt mực nước thấp nguy hiểm. Nhưng sau làn sóng đầu tiên của các dự án
năng lượng mặt trời, được thúc đẩy bởi các khoản thuế nhập khẩu thuận lợi, các
dự án mới về năng lượng tái tạo đang gặp các rào cản. Đã đến lúc tăng cường sản
xuất năng lượng tái tạo.
Các
ưu đãi dành cho năng lượng tái tạo hoàn toàn hợp lý khi xét đến các tác động
tích cực lớn của chúng bên ngoài, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa nếu các khoản trợ
cấp được cung cấp một cách minh bạch và không bị tham nhũng.
Việt
Nam có thể khai thác tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo bằng cách chủ động
vượt qua các rào cản pháp lý và cơ cấu, đồng thời đối mặt với bối cảnh kinh
doanh cố hữu thiên về việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Cần lưu ý rằng, mặc dù
các biện pháp khuyến khích dành cho năng lượng tái tạo là hợp lý, xét đến các
tác động tích cực to lớn của chúng bên ngoài, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa nếu
các khoản trợ cấp được cung cấp một cách minh bạch và không bị tham nhũng.
Thật
ra, một bài báo gần đây đăng trên Fulcrum lưu ý rằng, một cuộc thanh tra của
chính phủ đã phơi bày nhiều vi phạm trong việc cấp phép và chứng nhận các dự án
về năng lượng tái tạo. Các khoản ưu đãi cũng cần được quản lý với mục đích hướng
tới các hiệu ứng dây chuyền: Ví dụ, các khoản thuế nhập khẩu có thể được đưa ra
để làm cho năng lượng tái tạo hấp dẫn hơn, miễn là có các biện pháp dự đoán tác
động tiêu cực đến tình trạng độc quyền sử dụng nhiên liệu hóa thạch của nhà nước.
Tình
trạng cạnh tranh tiềm tàng về năng lượng tái tạo phải là cơ sở để cung cấp các
ưu đãi cho sự phát triển. Báo cáo của McKinsey (một công ty tư vấn quản lý và chiến lược đa quốc gia của Mỹ) về hai tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu và Bình Định đưa ra quan điểm tiềm năng của năng lượng tái tạo. Bà Rịa-Vũng
Tàu có nhu cầu công nghiệp lớn và có nguồn tài nguyên
thiên nhiên cho năng lượng tái tạo, trong khi Bình Định cũng có nguồn tài
nguyên thiên nhiên hấp dẫn nhưng nhu cầu công nghiệp ít hơn. Có sự biện
minh về mặt kinh tế cho việc khai thác những triển vọng này bằng cách cung cấp
các biện pháp khuyến khích minh bạch và có mục tiêu rõ ràng.
Nhưng
với các mức thuế hiện nay dành cho các dự án năng lượng tái tạo của Việt Nam,
không mang lại hiệu quả kinh tế nhất quán.
Một bước quan trọng sẽ là, cho phép các hợp đồng mua bán
điện trực tiếp (direct power purchase agreements, DPPA) tương tự như các hợp đồng
mua bán điện ảo của Malaysia. DPPA được làm thí điểm ở Việt Nam, sẽ cho
phép các doanh nghiệp bán năng lượng tái tạo trực tiếp cho người tiêu dùng mà
không cần chờ cơ sở hạ tầng công cộng được cải thiện. Chúng hỗ trợ khả
năng tồn tại về mặt tài chính và khả năng thanh toán của các dự án bằng cách thể
hiện nhu cầu và mục đích sử dụng được bảo đảm.
Được
phép mua trực tiếp năng lượng sạch từ các nhà khai thác tư nhân, thay vì mua hỗn
hợp năng lượng từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) sẽ giúp ích cho người mua, đồng
thời thúc đẩy việc xanh hóa cho ngành công nghiệp. Về cơ bản, việc sửa đổi các
thỏa thuận mua bán điện (PPAs), cho phép các doanh nghiệp trực tiếp bán năng lượng
tái tạo, đặc biệt khi EVN không thể mua hết các năng lượng tiếp nhận, nó sẽ
mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Việc đàm phán về PPAs với EVN, hiện là đơn
vị mua điện duy nhất, rất tốn thời gian và có xu hướng làm tăng chi phí cho dự
án.
Đầu
tư trong và ngoài nước vào năng lượng tái tạo cũng sẽ tăng lên nếu mạng lưới điện
được nâng cấp, cho phép khu vực tư nhân tham gia vào việc phát triển và vận
hành các mạng lưới điện. Các ngân hàng phát triển đa phương có thể là một nguồn
tài trợ lớn hơn. Việc hoàn tất các cuộc đàm phán của các quốc gia thuộc khối
ASEAN về xuất khẩu năng lượng tái tạo sẽ mang lại động lực phát triển mạnh hơn.
Môi
trường đầu tư cũng sẽ được hưởng lợi từ các chương trình học tập được thực hiện
tốt nhằm mở rộng khả năng về các nguồn nhân lực, tìm nguồn cung ứng và xác nhận
dữ liệu rộng hơn và tốt hơn cho năng lượng tái tạo, gồm dữ liệu về vị trí địa
lý của các địa điểm, khả năng về cơ sở hạ tầng cơ sở, cũng như các mục tiêu và
chỉ tiêu của chính phủ.
Việt Nam đang thực hiện một số bước để đạt được mức phát
thải ròng bằng 0 vào năm 2050, được hỗ trợ bởi Kế hoạch phát triển năng lượng
và đóng góp do quốc gia tự quyết định. Quá trình chuyển đổi năng lượng
quan trọng nhất của đất nước từ nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là than đá, sang
năng lượng tái tạo là trọng tâm của nỗ lực đó. Kết quả của nền kinh tế ít
carbon là khả thi, nhưng nó không tự động diễn ra, mà đòi hỏi chính phủ và các
doanh nghiệp phải có hành động phối hợp.
______
Tác
giả: Vinod
Thomas là khách mời thành viên nghiên cứu cao cấp tại ISEAS thuộc Viện
Yusof Ishak và trước đây là Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Quốc gia Singapore.
No comments:
Post a Comment