CÁC CHIẾN
HẠM HOA KỲ VÀ ‘FONOP’ MỚI TRÊN BIỂN ĐÔNG
https://www.facebook.com/trantrungdao/posts/4060824563941499
Giới
thiệu:
Bài viết bàn về sự có mặt của hai nhóm hàng không mẫu hạm USS Theodore
Roosevelt và USS Nimitz ngay sau khi USS John S. McCain thực hiện chuyến Tuần
Tra Tự Do Hàng Hải (FONOP) trong đó có đi sát với quần đảo Hoàng Sa. Tuần tra
Eo Biển Đài Loan liên tục là một cách để tái khẳng định chiến lược bảo vệ Đài
Loan của TT Truman năm 1950. Các mục đích chính của FONOP là gì?
Tập
Cận Bình cố tình khai thác các mối bất hòa trong nội bộ chính quyền Hoa Kỳ
nhưng đã không thành công. Trong mỗi thời kỳ phương pháp có thể khác nhưng về
dài hạn chiến lược bao vây và ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng trên vùng
Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương sẽ không thay đổi. Và cuối cùng, Việt Nam đứng
đâu trong tranh chấp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương?
***
Trong
một thông cáo báo chí của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ công bố từ bản doanh đặt tại
Nhật Bản, khu trục hạm USS John S. McCain đang tiến vào Eo Biển Đài Loan. Mục
đích của chuyến hải hành lần này là để “chứng tỏ cam kết của Hoa Kỳ đối với một
Ấn Độ Thái Bình Dương tự do và mở.”
Ngoài
ra, theo Reuters, sáng nay 9 tháng 2, 2021 hai nhóm tấn công thuộc hai Hàng
Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ gồm USS Theodore Roosevelt Carrier và USS Nimitz Carrier
đang điều khiển một cuộc tập trận phối hợp trên Biển Đông. Đây là cuộc tập trận
đầu tiên kể từ tháng Bảy năm 2020.
Hôm
4 tháng 2, 2021, trên đường tiến đến Eo Biển Đài Loan, USS John S. McCain cũng
đã đi gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam do Trung Cộng (TC) chiếm đóng và dĩ
nhiên không thông báo cho phía TC biết.
Nhắc
lại, khu trục hạm USS John S. McCain được vinh dự mang tên của ba người cùng
dòng họ McCain. Khi hạ thủy năm 1994, tàu chiến này mang tên cố Đô Đốc John S.
McCain Sr. và con trai ông là cố Đô Đốc John S. McCain Jr. Tháng Sáu, 2018, khu
trục hạm còn được vinh dự mang thêm tên của Thượng Nghị Sĩ John S. McCain III,
một cựu sĩ quan Hải Quân và là cháu nội của của cố Đô Đốc John S. McCain Sr.
Khủng
hoảng Eo Biển Đài Loan có một lịch sử nóng lạnh kéo dài từ 1950. Vào thời điểm
đó TT Truman ra lịnh Đệ Thất Hạm Đội tiến vào eo biển để bảo vệ Đài Loan từ các
cuộc tấn công bằng đổ bộ của TC.
Tuy
nhiên đến thời TT
Eisenhower, sau khi ký Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương Hoa Kỳ- Đài Loan
(Sino-American Mutual Defense Treaty) năm 1954, hải quân Hoa Kỳ rút ra
khỏi Eo Biển Đài Loan. Điểm đáng lưu ý là hiệp ước này chỉ nhấn mạnh đến việc
bảo vệ Đài Loan và Penghu (Bành Hồ) mà không có các đảo Quemoy hay Kinmen (Kim
Môn) và Matsu (Mã Tổ).
Từ
đó đến nay Eo Biển chiến lược này đã trải qua nhiều xung đột quân sự và hiện
nay cùng với Biển Đông là hai điểm nóng nhất trong Thái Bình Dương. Nếu chiến
tranh Thái Bình Dương bùng nổ, nước của eo biển có chiều ngang 160 km này sẽ
đổi thành màu đỏ.
Bằng
giọng điệu cố hữu, Wang Wenbin, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao TC phản đối:
“Trung
Quốc sẽ tiếp tục cảnh giác cao độ, sẵn sàng ứng phó với mọi đe dọa và khiêu
khích bất cứ lúc nào, đồng thời kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia của mình. Chúng tôi hy vọng phía Hoa Kỳ sẽ đóng một vai trò mang
tính xây dựng cho hòa bình và ổn định của khu vực, thay vì ngược lại.”
Lần
đầu trong năm 2021 nhưng không phải lần đầu từ trước đến nay. Năm ngoái cũng
chính USS John S. McCain đã thực hiện chuyến hải hành vào Eo Biển Đài Loan
trong một hành động được gọi tắt là FONOP. Thực hiện các FONOP trong khu vực là
một cách tái khẳng định quan điểm của TT Truman không chỉ bảo vệ Đài Loan mà
bảo vệ cả Eo Biển Đài Loan.
FONOP là chữ viết tắt của Freedom of
Navigation Operations (Tuần Tra Tự Do Hàng Hải). FONOP trên Biển Đông đã được thực
hiện từ thời TT Obama nhưng nhịp độ chậm hơn thời TT Trump. Tiếp nối chính sách
của TT Trump, chưa đầy một tháng từ khi nhậm chức TT Joe Biden đã tiến hành
FONOP.
.
Mục
đích của FONOP?
FONOP
của Hoa Kỳ nhắm vào bốn mục đích.
Thứ nhất, duy trì không gian
tự do hải hành trên Thái Bình Dương bao gồm Biển Đông phù hợp với các điều
khoản được quy định bởi UNCLOS.
Thứ hai, cô lập để dẫn tới vô
hiệu hóa các “status quo” (tình trạng hiện hữu) mà Trung Quốc vừa thiết lập qua
hình thức các đảo nhân tạo.
Thứ ba, thách thức trực
tiếp và phủ nhận chủ quyền của TC trên các quần đảo của Biển Đông không bằng
những tuyên bố suông mà bằng hành động cụ thể.
Thứ tư, về mặt quân sự, Mỹ
muốn cho TC thấy các căn cứ quân sự nổi mà họ xây dựng cách lục địa hàng ngàn
dặm chỉ là những điểm tập tác xạ của hải quân Mỹ một khi có chiến tranh.
FONOP
rất quan trọng. Như người viết đã bàn trong những bài trước đây, trong điều
kiện hiện nay chưa có một biện pháp quân sự nào khác làm TC lo ngại hơn.
Các
liên minh quân sự đang được thai nghén. Nhưng cho đến khi thành lập được một
liên minh quân sự kiểu NATO tại Á Châu trong đó cho phép sự có mặt thường xuyên
kể cả thả neo của tàu chiến Mỹ tại các đảo trên Biển Đông, FONOP là biện pháp
trả đũa cứng rắn duy nhất áp dụng được. Bất cứ một hành động không kềm chế được
của một bên cũng có thể dẫn đến chiến tranh, một viễn ảnh mà Tập Cận Bình không
dám nghĩ tới và tìm mọi cách tránh né.
Tập
Cận Bình chờ tới giờ chót của chức vụ ngoại trưởng, 20 tháng 1, 2021, để “trừng
phạt” Mike Pompeo vì đã “can thiệp vào nội tình Trung Quốc”. Cùng lúc, họ Tập
tuyên bố sẽ hợp tác với chính phủ Joe Biden để cải thiện mối quan hệ giữa hai
nước. TC nghĩ rằng cứng rắn với Mike Pompeo và dịu giọng với Joe Biden sẽ dẫn
tới một không khí hòa hoãn trong quan hệ Mỹ-Trung. Họ Tập quên một điểm, trong
truyền thống đối ngoại của Mỹ, chiến thuật có thể khác nhau nhưng chiến lược
đối ngoại chính, từ Truman (Dân Chủ) tới Eisenhower (Cộng Hòa) trước đây hay từ
Trump (Cộng Hòa) tới Biden (Dân Chủ), về căn bản, không khác.
Trong
buổi điều trần trước Ủy Ban Quốc Phòng Thượng Viện Hoa Kỳ, cựu Đại tướng Lục
Quân và nguyên Tư lịnh Bộ Tư Lịnh Trung Tâm của quân đội Hoa Kỳ Lloyd Austin khẳng định Trung Cộng là
đe dọa lớn nhất đối với an ninh và quyền lợi Mỹ. Ông cũng nhắc một cách tích
cực đến Chiến Lược Quốc Phòng 2020 được soạn thảo dưới thời TT Trump: “Tôi nghĩ
rằng phần lớn tài liệu này hoàn toàn phù hợp với những thách thức ngày nay.”
Trả
lời câu chất vấn của Thượng Nghị Sĩ Josh Hawley (Cộng Hòa, Missouri) rằng giữa
TC và Nga, quốc gia nào là đối thủ hàng đầu của Mỹ, cựu tướng bốn sao Lloyd
Austin, người từng chịu trách nhiệm quân sự Hoa Kỳ trong một khu vực gồm 20
quốc gia, cho rằng “Trung Quốc sẽ là mối đe dọa đáng kể nhất trong tương lai
bởi vì Trung Quốc đang gia tăng, trong khi Nga cũng là một mối đe dọa, nhưng
đang suy giảm.”
Cựu
ngoại trưởng Mike Pompeo cũng đánh giá Nga như vậy. Trong các tranh chấp quốc
tế, Putin chỉ là một kẻ cơ hội. Nga không phải là đối thủ đáng ngại của Mỹ. Nền
kinh tế Nga tính theo GDP còn nhỏ hơn của Nam Hàn, Canada, Ba Tây, Ý, Pháp. Kho
bom nguyên tử vẫn còn đó nhưng vào thời buổi này không mang ra dọa được ai.
Trong
bài viết Tương Lai Của Chiến Lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific
Strategy) cuối năm 2020, người viết tin rằng dù các tổng thống Mỹ tới là ai “Chiến lược Tự do và Mở Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương” (Free and Open Indo-Pacific Strategy) do TT Trump
đưa ra tại Đà Nẵng năm 2017 sẽ không thay đổi.
Cho
dù TT Joe Biden có muốn thay đổi cũng không được. Giống như các chủ thuyết
Monroe chống lại sự can thiệp của Châu Âu vào Châu Mỹ và chủ thuyết Truman ngăn
chặn sự bành trướng của chủ nghĩa CS, Chiến lược Tự Do và Mở Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương được xem là chiến lược của Hoa Kỳ trong thời đại này. Chiến lược đó
không phải riêng của một tổng thống nào mà phản ảnh quan điểm của lưỡng đảng
Hoa Kỳ.
Mục
đích tối hậu của Chiến Lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là giới hạn sự bành
trướng của TC. Tuy nhiên, phương pháp thực hiện sẽ khác rất xa với các phương
pháp được áp dụng trong Chiến Tranh Lạnh với Liên Xô.
Liên
Xô chỉ có 4 phần trăm GDP do mậu dịch quốc tế. Ngày nay, bảng tổng kết các quan
hệ mậu dịch đa phương giữa các quốc gia đang tranh chấp về chủ quyền hay về
quyền lợi trong vùng Biển Đông là một bảng phân tích vô cùng phức tạp. Những
quốc gia có tranh chấp với TC lại là những nước có quan hệ mậu dịch lớn nhất
với TC. Xung đột Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, vì thế, sẽ là một mặt trận khó
khăn và cần nhiều thời gian để giải quyết.
.
Việt
Nam đứng đâu trong tranh chấp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương?
Ngày 13 tháng 7, 2020, lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ ngoại
giao, Michael R. Pompeo trong tư cách ngoại trưởng đã ra một bản tuyên bố cứng
rắn bác bỏ các đòi hỏi, tuyên bố về chủ quyền của Trung Cộng trên Biển Đông.
Bản
tuyên bố cũng mở ra cánh cửa cho các nước trong vùng đang tranh chấp với TC: “Mỹ sát cánh với các đồng minh và đối tác
Đông Nam Á trong việc bảo vệ chủ quyền của họ đối với các nguồn tài nguyên
ngoài khơi, phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của họ theo luật pháp quốc tế.”
Lịch
sử thế giới cho thấy xung đột giữa các cường quốc bao giờ cũng là cơ hội cho
các nước khôn ngoan. Trong Chiến Tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, phần lớn các
nước Tây Âu và Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore ở Á Châu đều trở nên giàu có trong
một thời gian kỷ lục nhờ đã nắm lấy cơ hội kinh tế do Mỹ đem lại cho quốc gia
họ. Năm 1968 là năm người Việt cả hai miền đổ nhiều máu nhất nhưng cũng là năm
kinh tế Nhật gia tăng cao nhất trong lịch sử với 12.8 phần trăm.
Tính
đến năm 1989, để bao vây Liên Xô, Mỹ có liên minh quân sự với 50 quốc gia và
chi một ngân khoản khổng lồ lên đến tám ngàn tỉ dollar cho các lãnh vực quốc
phòng.
Liên
Xô không thể tạo được một đối lực tương đương. Khối quân sự Warsaw (Warsaw
Pact) trong thực tế chỉ là một nhóm các nước CS chư hầu đặt hoàn toàn dưới
quyền kiểm soát của Liên Xô. “Thành tựu” của tổ chức này là đàn áp các cuộc nổi
dậy của nhân dân Hungary (1956) và Tiệp Khắc (1968).
Khác
với các nước CS Đông Âu trước đây không có chọn lựa nào khác ngoài số phận tầm
gửi trên thân cây Liên Xô đang rã mục, CSVN có chọn lựa.
So
với Philippines, Việt Nam bị TC cướp gấp nhiều lần hơn. TC không những chiếm
toàn bộ Hoàng Sa, một phần Trường Sa mà còn nhiều lần đe dọa, hiếp đáp các tàu
đánh cá của ngư dân Việt. Nhưng cho đến nay, chọn lựa của giới lãnh đạo đảng CSVN
là im lặng. CSVN im lặng khi hải quân Mỹ
thực hiện các FONOP trong khu vực Biển Đông và cho đến nay CSVN chọn đứng ngoài
“Chiến lược Tự do và Mở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”.
Trong
thời TT Trump, các Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ từ Jim Mattis đến Mark Esper gần như
thăm viếng Việt Nam hàng năm. Hoa Kỳ nấu nướng, dọn sẵn lên bàn chỉ còn chưa
đút vô miệng CSVN mà thôi.
.
Nhưng tại sao CSVN im lặng?
Một
số quan sát viên cho lý do kinh tế thương mại ảnh hưởng quyết định im lặng của
đảng CSVN.
Thật
ra chưa hẳn vậy. Việt Nam không phải là nước duy nhất có quan hệ kinh tế lớn
với TC. Đài Loan, một nước mà lúc nào TC cũng muốn ăn tươi nuốt sống cũng là
một trong những nước đầu tư nhiều nhất vào TC. Chỉ riêng mậu dịch giữa hai bờ
eo biển năm 2018 lên đến 150 tỉ dollar. Điều kiện mậu dịch cao tương tự cũng
đang diễn ra giữa Ấn Độ với TC hay giữa Nhật Bản với TC.
CSVN
im lặng chỉ vì giữa TC và CSVN có một mối quan hệ đặc biệt mà các quốc gia khác
không có, đó là sự lệ thuộc tư tưởng chính trị của đảng CSVN vào đảng CSTQ, và
ngày nào sự lệ thuộc này còn tồn tại, ngày đó CSVN sẽ còn im lặng.
No comments:
Post a Comment