Hồi
ức học trò thời VNCH Kỳ 1 : Nguồn suối yêu thương
Thứ Tư, 02/24/2021 - 07:43 — Gió Bấc
https://www.rfavietnam.com/node/6694
Dư
luận xôn xao chuyện học trò dánh cô giáo với nhiều bình luận trái chiều, tôi
băn khoăn tại sao như vậy? Ôn lai ngày xưa mình đi học thế nào. Hóa mình hạnh
phúc được lớn lên trong nền giáo dục miền Nam. Cái triết lý nền giáo dục
"nhân bản", "dân tộc", và "khai phóng" là mãi đến
sau này tôi mới đươc biết qua sách vỡ, điều xuyên suốt mà tôi nhận đươc trong
đời đi học và thành ấn tượng đến bây giờ đó là nền giáo dục thấm đẩm yêu
thương.
Nhiều người viết về giáo dục Miền Nam trước 75 như
là sản phẩm của xã hội phồn vinh. Tôi e rằng không hoàn toàn như vậy! Tùy theo
từng vùng, từng giai đoạn, thời ấy có những lúc những vùng nông thôn cũng phải
chạy gạo ăn từng bửa, trường sở cũng thiếu thốn trăm bề nhưng nó đầy ắp yêu
thương.
Ngày đầu tiên tôi đi học không thơ mộng như bài
viết của nhà văn Thanh Tịnh. Ở Miền Nam tháng 9 là tháng mưa dầm, con đường từ
nhà tới trường sình lầy hai bên, đường sống trâu chính giữa thì trơn như thoa
mở. Người giành quyền dắt tay tôi đi học, không phải mẹ mà là bà nội, người
suốt đời không biết mặt con chữ mà thuộc làu thơ Lục Vân Tiên.
Lớp học đầu đời là căn võ ca (gian nhà trống dùng
để hát bội, tiếp khách khi cúng đình) đình làng chỉ có mái nhà mà không có
vách.
Cô giáo tôi có con nhỏ nên nhiều khi đi dạy phải
mang con theo. Lũ chúng tôi như một đàn gà trong khoảng sân không phên giậu
muốn chạy ra chạy vô lớp học lúc nào cũng đươc. Ấy vậy mà dưới sự chắt chiu của
cô, cuối năm học chúng tôi đã đọc trọn quyển vần trái táo, biết ráp vần xuôi
vần ngược, và đọc thuộc bài Ông Thầy Đầu Tiên. “Trẻ còn ngu dại biết
chi. Nhờ thầy răn dạy khắc ghi trong lònh. Mở mang trí hóa cho thông. Uốn tay
chỉ dạy cái công dẫy đầy. Nhờ ai ta đặng thế này. Ta nên nhớ lấy ông thầy đầu
tiên”
Lên lớp tư, (bây giờ là lớp 2) phòng học của tôi
còn thảm hại hơn. Đó là dãy nhà tol thiếc cũ nát, nằm bên cạnh một đồn lính
nghĩa quân mà một tháng có đến vài lần Việt Cộng tấn công. Mỗi lần như vậy súng
đạn lớn nhỏ rải vào trường. Cả mái, vách đều lỗ chỗ viết đạn. Ngày nắng thì
bóng nắng để hoa lên bàn, lên tóc.Ngày mưa thì trong lớp cũng bì bỏm nước như
ngoài sân. Tập vở phải giấu trong hộc bàn để không bị ướt. Vì vậy, tiếng trống
báo giờ học giờ chơi, tan học chỉ là tương đối, tất cả chỉ tùy thuộc vào ông
trời và khẩu lịnh của cô. Cứ mỗi lần mưa mấy cô trò thu xếo tập vỏ tìm chô khô
trốn dột. Hết mưa lại lau bàn ghế lấy tập học bài.
Cái khó đó không ngăn được chúng tôi hấp thu những
kiến thức thú vị từ bài học. Tình yêu nước đươc nhen lên từ câu chuyện về các
nhân vật lịch sử anh hùng. Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt mà lo việc nước.
Trần Quốc Toản tuổi trẻ phất cờ Phá Cường Địch Báo Hoàng Ân, Trần Bình Trọng
thà làm quỷ phương Nam không làm vương đất bắc…. Tình yêu quê hương và kiến
thức địa lý đươc bồi đắp qua cuộc hành trình thú vị của cha con ông Lộc. Chúng
tôi biết thế nào là đầm, phá, đập, sông từ đâu chảy ra….
Lên lớp ba, lớp nhì ra chơ học, nghe lóm các anh
chị lớp lớn chúng tôi biết rằng thầy cô không phải ai cũng như ai, có người nỗi
tiếng hét ra lửa, đánh đòn tét cả roi mây. Định mệnh khiến xui sao năm lớp nhì
tôi được xếp vào tay cô giáo nổi tiếng bà chằn.
Buổi học đầu tiên cô yêu cầu mỗi tổ phải có riêng
một cây roi mây mang vào lớp trong tuần trực. Cả lớp xám hồn xanh mặt nhưng đến
hết năm học nạn nhân chính của cây roi mây là cái bàn giáo viên của cô.
Phòng thủ gần nửa năm học cô vẫn là cô chứ bà chằn
chưa thấy hiện ra. Rồi cũng có ngày tai họa trung trùng kéo đến. Hôm ấy vào giờ
ra chơi chúng tôi chia phe bắn bì bằng mấy sợi thun căng trên hai ngón tay cái
và trỏ. Rủi sao tên bay đạn lạc trúng vào người thầy giám thị. Ông lừ mắt hỏi
lớp nào, lớp Nhì 4 phải không?” Cả đám xanh mặt tản ra, trở về lớp lại chia phe
cờ lau tập trận. Hăng máu, chúng tôi cầm những nhành cây điệp rượt đuổi nhau
nhảy qua cửa sỗ và va quệt làm rơi bức tranh tráng thủy treo trên tường. Biết
tội tày trời và ngán danh hiệu bà chằn nên đám chúng tôi đâm liều bỏ trốn tra
con sông gần đó tắm và nhờ mấy đứa con gái thu xếp tập vở sau giờ học. Hôm sau,
chúng tôi tiếp tục trốn ra bờ sông thì bị mấy đứa con gái theo lịnh cô lôi về
với lời hứa hẹn không bị đánh đòn. Quả đúng là cô không đánh, chỉ bắt sắp hàng
trước bảng nghe cô giảng đạo và chép bài phạt 100 câu không đươc phá phách bỏ
học. Hóa ra bà chằn của chúng tôi thật hiền và dễ thương.
Năm lớp Nhất (lớp 5 bây giờ) mới thật là ấn tượng.
Thời đó từ lớp nhất (tiểu học) qua đệ thất (trung học đệ nhất cấp) có kỳ thi
tuyển rất khắc khe. Cả quận chỉ có một trường trung học tuyển 5 lớp đệ thất gồm
250 học sinh trên 3000 học sinh tiểu học toàn quận. Số bị rớt ngồi lại học lớp
nhứt rất đông. Số anh chị này có kinh nghiệm bảo nhau cô PA lớp Nhứt 1 của tôi
dạy giỏi nên đổ xô vô lớp này khiến sĩ số của lớp lên đến 85 học sinh trong khi
các lớp khác chỉ hơn 40.
Thầy hiệu trưởng nhiều lần can thiệp, phân
chia lại nhưng như bắt cóc bỏ dĩa, cuối cùng đành chấp nhận sĩ số kỷ lục này.
Dù đã ken thêm bàn ghế nhưng chúng tôi vẫn phải ngồi chen như mắm. Riêng cô thì
không nề hà nhiều ít, cô chia chúng tôi thành tổ và phân công các tổ tự dò bài
học, bài tập của nhau trước khi vào học. Chúng tôi phải đến lớp 30 phút trước
khị giờ học bắt đầu. Thời gian trong lớp để ưu tiên để giảng bài học và làm bài
tập mới. Cô cho chúng tôi hùn tiền mua báo Tuổi Ngọc, Tuổi Hoa, Thằng Bờm
chuyền tay nhau đọc.
Mãi sau này tôi mới nhận ra bí quyết “dạy hay” của
cô là luôn khuyến khích và tạo cho lớp tinh thần thi đua tự học. Ngoài chiêu tự
dò bài, cô còn có mục cho làm bài tập chạy. Dù là toán, khoa học thường thức
hay văn sử, cô không chấm bài cả lớp mà chỉ chọn 10 bài nộp trước. Nếu có chấm
cả lớp thì 10 bài nộp trước cũng đươc điểm ưu tiên. Cô cũng công bằng chia đêu
cho chúng tôi luân phiên mỗi tổ trực lớp một tuần, làmv6ẹ sinh, dò bài các tổ
khác và hạnh phúc, hảnh diện nhất là cuối ngày được ôm sổ điểm, hộp phấn, …
theo cô về nhà.
Năm ấy lớp chúng tôi đậu khoảng 40/250 học sinh
toàn quận và có 4 trong top 10 học sinh thứ hạng cao nhất.
Qua một kỳ thi, bước vào trung học chúng tôi đã
thành người lớn với bao điều mới lạ. Ăn măc đồng phục: nam quần dài xanh áo
trắng, nữ mặc áo dài, phải mang giày dép chứ không chân trần quần đùi. Trên
ngực áo có phù hiệu trường trung học với họ tên, lớp học như là cấp hàm sĩ
quan. Khuôn viên trường khá rộng đủ chỗ cho một sân bóng chuyền, sân cầu lông
và hố nhảy. Đắc dụng nhất là sân bóng chuyền hầu như lúc nào cũng có người
chơi. Giờ tan học cả các thầy cũng ra sân chơi bóng, cũng cáp độ thắng thua.
Banh chơi tập thể rất mau hư, vá chằng vá đụp, học trò nghèo ở quê không có
tiền mua banh mới, các thầy bỏ tiền mua, lại là loại banh nhựa, đắt tiền, chơi
rất êm tay.
Mảnh sân không chuyên này đã ươm mầm cho nhiều cầu
thủ, huấn luyện viên bóng chuyền cấp quốc gia sau này nhưng điều quan trọng hơn
trong thời điểm ấy nó kéo gần khoảng cách Thầy Trò, không đánh mất sự kính
trọng mà tăng phần thân thiết.
Thời ấy, ngoài các thầy cô chính ngạch sư phạm, còn
có một số thầy cô là sinh viên Văn Khoa, Khoa Học dạy giờ (ăn lương theo ngạch
công nhật), đa số còn rất trẻ. Khó có thể đánh giá về chất lượng chuyên môn
nhưng ấn tượng còn đọng lại trong tôi sau hơn nửa thế kỷ rời xa nhà trường
không phải là những bài học trong chương trình mà là những điều các cô dạy
chúng tôi ngoài chương trình học. Đó là một chút ánh sáng văn hóa của đô thành
Sài Gòn pha với sức sống, tinh thần tươi trẻ của sinh viên. Cô giáo Anh Văn lớp
đệ ngủ (lớp 8) dạy bài hát Clementime trong mùa giáng sinh, Thầy Công Dân lớp
đệ lục (lớp 7) dạy bài hát tập thể Về Bên Mái Nhà, Cô giáo Văn lớp 8 cho sinh
hoạt ngoài trời và trò chơi tập thể. Chương trình văn đệ tứ (lớp 9) khô khan
với Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Thầy dạy văn lại cho chúng tôi chép những bài thơ
viết tay như Đôi Mắt Người Sơn Tây, Tây Tiến làm chớm lên ước mơ lãng mạn. Đặc
biệt các bạn gái trường tôi mê cô giáo Sử nguyên là nữ sinh Trưng Vương Sài Gòn
truyền lại các điệu múa truyền thống của trường này như Bạch Đằng Giang, Đêm Mê
Linh, Đêm Lam Sơn làm các tiết mục chính cho chương trình văn nghệ cuối năm.
Đương nhiên trong chuổi ngày thơ mộng ấy cũng lắm
lần bị phạt vạ không oan chút nào. Quên đem tập, không thuộc bài là lỗi thường
tình, đi học trễ, cúp cua (trốn học), luyện chưởng (đọc truyện kiếm hiệp) trong
giờ học cũng không phải hiếm. Đương nhiên quý thầy cô cao thủ cũng có đủ chiêu
thức đáp trả từ phạt nghĩ học ngắn hạn, chép bài phạt, đến zero hạnh kiểm. Cũng
có trường hợp oan hoặc nặng quá mức nhưng nhìn chung suốt 12 năm học chưa có
trường hợp nào quan hệ thầy trò bị gảy đổ hay việc phạt vạ ảnh hưởng đến việc
học của học sinh.
Thầy Toán lớp Đệ Tứ rất nóng tính, gạo bài đứa nào
đi chậm chưa lên đến bảng đã cho về chỗ ngồi. Yên chí trong sổ điểm đã có cặp
Zero tròn trinh. Bù lại thầy dạy rất hay và cuối năm mở đợt lập công cho những
đứa bị điểm kém có cơ hội làm bài tập lấy điểm kéo bù.
Điều dị ứng trong môi trường Trung học là Giám Thị.
Cái người không dạy, đi xét nét rình mò mà bắt phải kêu bằng Thầy. Bản năng tự
do và giai doạn phát triển hình thành tính cách làm chúng tôi phản kháng. Tuổi
phá phách lắm trò nghịch ngợm nên càng va chạm với giám thị nhiều hơn. Năm đệ
tứ, lớp tôi toàn đực rựa, một số bạn lớn tuổi sắp dính động viên đi lính nên
càng đầu trò quậy phá.
Đầu năm, cả lớp đã bị Zero hạnh kiểm vì làm gảy
chân bàn giáo viên, không báo nhà trường sữa chữa mà gá lại để phá thầy cô.
Giữa năm lại phạm lỗi nặng trong buổi chào cờ đầu tuần, tình cờ có ông Quận
trưởng tham dự. Lớp tôi tới phiên trực hát quốc ca và kéo cờ thì hát sai lời
không biết lướt qua mà dừng lại nhìn nhau cười. Xong lễ, Thầy Tổng giám thị cho
cả lớp chạy 5 vòng sân trường, tiếp đó Ban Đại Diện lớp được triệu tập lên
phòng Giám Thị.
Biết đã phạm trọng tội, cả năm thằng mặt xanh như
đít nhái, cúi đầu chờ nghe tuyên án. Sau bài đít cua hạch tội vô ý thức làm mất
kỷ lụật, danh dự hiệu đoàn bla bla chính xác không thể nào tranh cải, thầy
tuyên án: “Zero hạnh kiểm có xứng đáng không?”
Theo quy chết thai lần zero hạnh kiểm đồng nghĩa ở
lại lớp bất chấp học lực. Cả năm thằng choáng váng nhưng không có lời lẻ nào
bào chữa kêu oan. Nước mắt con trai chợt ứa ra. Thầy cười nụ “Năm cái roi mây
chịu không?” Chúng tôi như thấy thiên đàng hiện ra trước mắt. Trưởng lớp còn
chút thông mình xin thêm ân huệ “Thầy cho đóng cửa lai để…”. Năm cái roi mây
đau tê tái nhưng cứu thoát cho năm học quả là quá nhân từ. Sau trận đòn ấy cách
nhìn của tôi về thầy Giám Thị từ ông Ác đã thành ông Thiện.
------------------------------------------------
Hồi
ức học trò thời VNCH Kỳ 2 : Không gian tự do
Thứ Tư, 02/24/2021 - 07:46 — Gió Bấc
https://www.rfavietnam.com/node/6695
Có
ngưởi nói rằng “kiến thức là những gì sau khi đã quên đi người ta còn nhớ lại”.
Sau nửa thế kỷ không còn là học trò, tôi nhận ra điều đọng lại của nền giáo dục
Miền Nam ngày ấy là tri thức xây đắp không gian tự do trong sách giáo khoa,
cách dạy và cả cung cách vận hành của guồng máy.
Trí nhớ con người thật kỳ lạ, khi có tuổi những
chuyện thực tại như cái kính, cái chìa khóa bỏ ở đâu không nhớ. Thuốc tim mạch
buổi sáng, thuốc huyết áp buổi chiều uống chưa khi nhớ khi quên. Ấy vậy mà có
những bài thơ, bài văn từ thuở học trò người ta vẫn thuộc như in. Không phải
quy nạp kinh nghiệm cá nhân mà qua bạn bè đồng học và ngay trên cộng đồng mạng
cũng có nhiều trang diễn đàn ghi nhận, thảo luận rất xôm về những bài học cũ.
Với thế hệ trước, cố nhà văn Sơn Nam từng có hẳn truyện ngắn “Tình Nghĩa Giáo
Khoa Thư” viết về sự đồng điệu đồng cảm về ký ức của những bài học cũ trong bộ
sách giáo khoa thư của Trần Trọng Kim, Bùi Kỹ..
Những bài thơ ấy không phải là danh tác nhưng chân
thành, gần gủi và nồng hậu sống mãi trong lòng người. Bài Về Quê Ngoại tôi học
từ năm lớp nhì và vẫn nhớ như in cho tới bây giờ
Một
buổi hoa vàng ngập lối đi
Mẹ
tôi âu yếm dắt tôi về
Viếng
thăm quê ngoại vì lâu lắm
Người
vẫn hằng mong trở lại quê
Cau
trắng bà phơi ở trước thềm
Ngỡ
ngàng khi thấy bóng quen quen
Dừng
tay bà lại lần ra ngõ
Sau
phút hàn huyên ôm lấy tôi
Nhớ
thương bà chẳng nói nên lời
Trên
đôi gò má nhen nheo ấy
Giọt
lệ vui mừng khẻ khẻ rơi…
Ai cũng có một bà ngoại, một quê ngoại để về thăm
mỗi năm một đôi lần và bài thơ này như là câu chuyện của riêng tôi. Quê ngoại
tôi không có hoa vàng nhưng có hàng cau lắc lay trong gió.
Ngày nay ngành giáo dục cộng sản bàn về việc tích
hợp các môn học với nhau như là tiến bô khoa học nhưng đó chỉ mới là lý luận,
còn thực tế chứa biết ra sao. Thế nhưng thời nhỏ chúng tôi có những bài học
thuộc lòng, chủ yếu là để tập đọc tập viết tiếng Việt nhưng lại bao hàm kiến
thức địa lý và lồng trong đó là tình yêu quê hương nước Việt thật ngọt ngào.
Đây là bài học thuộc lòng trong năm lớp Nhứt
Chuyến đi dài
Thời
niên thiếu vốn giàu mơ lắm ước
Tôi
đã nuôi trong trí chuyến đi dài
Biết
bao giờ cho thỏa được lòng trai
Chân
bé quá, không mang hài vạn dặm
Để
chờ đợi cho vơi phần thăm thẳm
Bản
đồ đây, tôi dự ước hành trình
Giữa
phương Nam biển dội sóng thanh bình
Ta
sẽ lấy Côn Sơn làm khởi điểm
Sau
giây phút để tâm hồn mặc niệm
Lắng
không gian nghe tiếng gọi tiền nhân
Đường
thênh thang chí quyết cũng xem gần
Đây
Phú Quốc mùi hương quê tỏa rộng
Hà
Tiên với cảnh non chùa Thạch Động
Kiên
giang còn Nhật Tảo sáng ngàn năm
Mắt
cô em Cái Sắn tựa trăng rằm
Bao
la quá ruộng Cà Mau xếp gọn
Thuyền
độc mộc xuôi trên dòng Cái lớn
Xuyên
kênh đào về trẩy hội Tây Đô
Lòng
Hậu Giang bát ngát tận đôi bờ
Cùng
hẹn với sông Tiền trôi chậm rãi
Sen
Đồng Tháp phơi màu tươi thắm mãi
Núi
Điện Bà che rợp bóng tôn nghiêm
Trăng
Sài-thành e thẹn dưới đèn đêm
Hai
ngả nước ai Đồng Nai, Gia Định!
Bờ
Long Hải chiều êm mây nắng tịnh
Bưởi
Biên Hòa ngọt giọng khách miền xa
Trà
B’lao sưởi ấm nếp môi già
Đà
Lạt gió quyện rừng mây, thác nước
Rừng
Ban Mê suối đàn nai khẽ bước
Buồm
lao xao Phan Thiết rộn niềm vui
Ngọn
tháp Chàm cô quạnh tiếc ngày trôi
Tàu
vạn quốc về Cam Ranh chen chúc
Thùy
dương rủ Nha Trang thêm hiền thục
Đá
bia còn nguyên nét Triện người xưa
Bãi
Tam Quan cát mịn ấp chân dừa
Guồng
xe nước sông Trà gieo bụi trắng
Ngũ
Hành ngắm mặt Hàn giang phẳng lặng
Hải
Vân đài cao vút tuyệt đường chim
Nửa
khuya chuông Thiên Mụ vọng êm đềm
Cả
Hương, Ngự la đà theo nhịp trúc
Cầu
Hiền Lương sẽ nối tình Nam Bắc
Xóa
nhòa đi phân cách giữa thương đau
Từ
Nam Quan cho đến mũi Cà Mau
Liền
một dải và chuyến đi lại tiếp
Ngày nay người ta kêu than học sinh chán sử nhưng
thế hệ chúng tôi vẫn còn thuộc lòng các bài toát yếu sử lớp nhất như “Được
tin quân Thanh chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ bèn lên ngôi hoàng
đế lấy niên hiệu là Quang Trung….”. Môn lịch sử không khô khan mà còn
hòa tan trong văn học qua nhiều bài học thuộc lòng như bài Giờ Quốc Sử
:
Những
buổi sáng, vừng hồng le lói chiếu
Trên
non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng
tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng
thầy giảng suốt trong giờ quốc sử.
Thầy
tôi bảo: "Các em nên nhớ rõ,
Nước
chúng ta là một nước vinh quang.
Bao
anh hùng thuở trước của giang san,
Đã
đổ máu vì lợi quyền dân tộc….
Với cơ chế Bộ Giáo Dục soạn thảo chương trình giáo
khoa, các nhà giáo, nhà văn theo đó soạn sách tạo ra nguồn sách giáo khoa phong
phú, đa dạng, mỗi thầy cô giáo tự chọn sách để dạy. Sự cạnh tranh lành mạnh ấy
không có đất sống cho cách kinh doanh cửa quyền hay chộp giật, sách giáo khoa
sai be bét lỗi như hiện giờ.
Mỗi tác giả, nhóm tác giả tạo dựng uy tín
thương hiệu cho mình bằng tài năng phong cách mà trước hết là năng lực và tình
yêu giáo dục. Mỗi quyển sách truyền tay nhau qua nhiều thế hệ. Thời trung học,
khi các bạn bè khá giả của tôi học sách của các nhóm Alpha, Trường Thi đươc
biên soạn ấn hành trong cuối thập kỷ 1960 với phương pháp, phong cách hiện đại
thì tôi vẫn luyện toán từ sách của tác giả Nguyễn Văn Phú, Đào Văn Dương,
Nguyễn Đức Kim viết từ thập niên 1950 của thế hệ các anh tôi truyền lại. Kết
quả vẫn như nhau.
Cách dạy và cách học thời ấy cũng rất đa dạng, bất
ngờ thú vị theo phong cách của từng thầy, cô. Thầy dạy Anh Văn lớp đệ tứ chỉ
luyện giọng đọc mà không cần văn pham. Thầy dạy Toán lớp đệ tam đến lớp tay
không, không có sổ đầu bài hay giáo án như bây giờ nhưng bài học, bài tập,bài
giải trong đầu thầy tuôn tràn lớp lang mạch lạc. Sau một năm đánh vật với thầy
chúng tôi như lớn bổng lên trước các bài Đạo Hàm, Toán Đố Bậc Hai, Hình Học
Không Gian vốn là những món khó nhai. Thây dạy sinh ngữ 2 năm đệ tam lại truyền
cho chúng tôi những bài hát tiếng Pháp Que sera sera, Le beau danube bleu đứa
nào hát giỏi điểm cao hơn những đứa giỏi chia Verb.
Đặc biệt cô giáo Văn năm lớp 10 dành gần trọn lục
cá nguyệt (học kỳ) chỉ giảng hai bài Tài sắc chị em Kiều và Kiều du xuân. Phần
còn lại của chương trình gồm Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm và Hoa Tiên truyện,
cô chia tổ cho tự học và thuyết trình. Ngày đầu tiên đến lớp cô cho chép một
bài thơ tình bí ẩn và chỉ đọc để cảm mà không nhất thiết phải hiểu. Cô gọi tên
từng đứa đứng lên để nhận diện và giờ học thứ hai cô phát cho mỗi đứa năm bảy
câu nhận xét về tính cách chính xác không thua Quỷ cốc tiên sinh.
Theo bài bản ngày nay quả là cô phá giáo án nhưng
ngay cú bắt mạch độc đáo đó, cô tạo ra ấn tương mạnh với cả lớp. Chúng tôi
chuyền tay nhau đọc lời phán của cô rồi bình luận suốt nhiều ngày. Qua những
chuyện hàn huyên trong các kỳ họp lớp gần đây, bạn bè tôi vẫn còn thuộc bài thơ
của cô và chừng như chúng tôi (Ban Toán, Lý) biết yêu văn từ tiết học của cô.
Thời ấy, chừng như mỗi môn học, mỗi tiết học là một
không gian độc lập thiêng liêng của Thầy, Cô và học trò. Không có kiểm tra, dự
giờ, không có Ban Giám Hiệu, Thanh Tra hay bất cứ chủ thể nào khác xen vào.
Hệ thống quản lý rất nhẹ nhàng, Trường tiểu học chỉ
có Hiệu trưởng, hiệu phó, nhân viên thư ký kiêm thủ quỷ. Trường Trung học có
thêm Giám Học, Tổng Giám Thị và Giám Thị. Hàng tháng viên Tùy Phái chạy xe
Sarch tiếng nổ bành bành đinh tai nhức óc từ tỉnh xuống phát lương cho từng
trường. Ngành dọc chỉ có Bộ, Nha và Ty giáo dục mà không có cấp Phòng ở quận.
Sau này chúng tôi đươc biết, thời ấy Sư Phạm không
phải là ngành chuột chạy cùng sào như bây giờ mà phải thi tuyển với tỉ lệ chọn
rất gắt gao. Muốn dự tuyển vào Đại học sư phạm, thí sinh phải đậu chứng chỉ dự
bị của Đại học Khoa học hoặc Văn Khoa đó lại là những chứng chỉ khó gặm. Vì
vậy, đối với nam, chỉ cần rớt một trong hai kỳ thi trên sẽ dính vào quân dịch,
nên phải học giỏi, thật tự tin mới dám thi Sư Phạm.
Bù lại, người tốt nghiệp Đại học, Cao Đẳng sư
phạm sẽ được Bộ Giáo Dục bổ nhiệm bằng môt nghị định theo ngạch công chức Giáo
Sư đệ nhị cấp (Đại học) hoặc đệ nhất cấp (Cao Đẳng). Thầy tôi kể rằng chỉ số lương
của Giáo sư đệ nhị cấp là 470 cao hơn rất nhiều so với ngạch của Cử nhân hành
chánh (thường đươc bổ nhiệm làm quận phó, Trường ty thậm chí Phó tỉnh trưởng
hành chánh). Là công chức cấp Bộ quản lý, người Thầy giáo thời VNCH không lệ
thuộc vào các quan chức hành chánh hàng đầu của quận của tỉnh thậm chí ngạch
bậc lương cao hơn nên không thể có chuyện cô giáo bị Phòng Giáo Dục điều đi
tiếp cấp trên ăn nhậu như gái bia ôm của thời cộng sản.
Hơn các ngành khác, giáo chức VNCH còn đươc hưởng
trọn ba tháng hè, không phải học chính trị hay làm những việc linh tinh như bây
giờ. Chính nhờ vậy, người thầy có không gian thời gian đủ rộng, để nuôi dưỡng,
dung chứa tình yêu học trò và có động lực và năng lực cho nghề nghiệp.
Thầy cô thời đó cũng không bị áp lực về thành tích,
thi đua, tỉ lệ học sinh lên lớp hay ở lại. Tất cả những yếu tố đó được đánh giá
khách quan. Thầy cô bộ môn kiểm bài, cho điểm vào sỗ. Lớp quản lý sổ điểm và sổ
điểm danh và tổng hợp các điểm số này theo Giáo sư hướng dẫn (chủ nhiệm). Mỗi
học sinh có riêng bảng Thành Tích Biểu ghi điểm trung bình hàng tháng, điểm thi
học kỳ và lời phê của thầy cô từng môn, lời phê tổng quát của Giáo Sư hướng
dẫn. Căn cứ điểm sô này, cuối năm ai cũng tự biết mình lên lớp hay ở lại hay
được nhận thưởng. Không có chạy điểm, xin điểm, dù thời đó đang chiến tranh,
điểm số rất quan trọng, nếu bị ở lại lớp một năm là dính động viên quân dịch
không thể thi tú tài. Những học sinh lớn tuổi vướng quân dịch chỉ có đường học
nhảy (đăng ký học các lớp cao hơn ở các trường Tư Thục) và ra sức cày để vượt
qua các kỳ thi.
No comments:
Post a Comment