Làm
thế nào Biden có thể lấy được lòng tin một châu Á vẫn còn hoài nghi?
Ban biên tập, ANU - East Asia Forum
Song Phan, chuyển ngữ
24/02/2021
Hoa Kỳ đã từ bỏ vai trò lãnh đạo kinh tế ở châu Á
cách đây 4 năm. Thay vì thúc đẩy và củng cố các định chế và khuôn khổ đa phương
làm nền tảng cho sự thịnh vượng của châu Á, Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Trump
đã bắt đầu phá hoại chúng một cách có hệ thống: Từ WTO, WHO và Hiệp định Paris,
đến các liên minh quân sự với Nhật Bản và Hàn Quốc, quan hệ thương mại song
phương và hợp tác trong các diễn đàn khu vực.
Thông điệp mà các nhà hoạch định chính sách châu Á
nhận được rõ mồn một: Châu Á quá phụ thuộc vào một nước Mỹ ngày càng thiếu tin
cậy. Đáng buồn thay, thiệt hại từ nhiệm kỳ tổng thống của Trump là kéo dài.
Dù Tổng thống Biden là một sự thay đổi mới mẻ, ba
điều vẫn đè nặng trong tâm trí các nhà hoạch định chính sách châu Á.
Thứ nhất, các nhà hoạch định chính sách châu Á nhận ra rằng,
Trump không phải là một rủi ro. Ông là sản phẩm của những thách thức cơ cấu sâu
sắc lâu dài trong nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ. Giải quyết những thách thức đó
sẽ là chuyện khó và lâu dài. Đảng Dân chủ giành chiến thắng tại Nhà Trắng, Hạ viện
và Thượng viện, có nghĩa là Biden có nhiều cơ hội hơn để giải quyết những thách
thức đó. Nhưng việc không bảo đảm được đa số đủ lớn để đánh bại các kiểu cách
câu giờ, đồng nghĩa với việc hợp tác với đảng Cộng hòa – một đảng đang chịu
khủng hoảng bản sắc sâu sắc – vẫn là điều cần thiết.
Thứ hai, Biden có rất nhiều vấn đề trong nước cần giải
quyết. Các tổng thống Mỹ trong quá khứ từng phải đối phó với bạo loạn chủng
tộc, đại dịch, suy thoái, phân cực chính trị và các hành vi phạm tội được cho
là của những người tiền nhiệm trước đây, nhưng chưa bao giờ tổng thống [Mỹ]
phải đối phó với tất cả các vấn đề đó cùng một lúc. Với rất nhiều vấn đề trong
nước, các nhà hoạch định chính sách châu Á lo ngại, Biden sẽ quá bận rộn và có
quá ít nguồn lực chính trị để giải quyết các vấn đề chính sách đối ngoại trong
khu vực.
Cuối cùng, mặc dù Biden đã bắt đầu điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Mỹ, nhưng vẫn có rất nhiều tín hiệu từ Washington khiến các nhà hoạch
định chính sách châu Á lo lắng: Từ luận điệu hung hăng ‘Mua hàng Mỹ’, đến việc
tiếp tục cách tiếp cận siêu chứng khoán hóa đối với Trung Quốc vốn coi nhẹ vai
trò kinh tế của Trung Quốc trong khu vực và vai trò của sự thịnh vượng kinh tế
đối với an ninh quốc gia của châu Á.
Biden đang đối mặt với nhiệm vụ khó khăn giành lấy
lòng tin trước một châu Á hoài nghi. Thực tế là cả hai đều cần nhau: Châu Á cần
đối trọng của Mỹ và Biden cần châu Á nếu ông thực hiện các mục tiêu chính sách
đối ngoại của mình. Biden có thể làm gì để khơi dậy niềm tin trong một khu vực
vẫn còn bị đau đòn và bầm dập sau bốn năm vô nguyên tắc của chính quyền Trump?
Trong bài viết dẫn đầu của chúng tôi tuần này, Adam
Triggs gợi ý một câu trả lời: Sử dụng năm đăng cai G20 sắp tới của Indonesia
vào năm 2022 để tăng cường các thể chế đa phương mà châu Á dựa vào và củng cố
ảnh hưởng lâu dài của Mỹ trong khu vực. Khi quay lưng lại với các thể chế đa
phương, Mỹ đã từ bỏ một trong những vũ khí mạnh nhất trong kho vũ khí của Mỹ:
Khả năng định hình các luật lệ và định chế toàn cầu. Vấn đề là có quá nhiều định
chế đa phương đang rất cần được cải cách. Khi các định chế này co lại theo thời
gian, ảnh hưởng của Hoa Kỳ cũng như sự chắp vá của các thể chế cạnh tranh xuất
hiện.
Triggs gợi ý rằng, có một số định chế toàn cầu lớn
cần được cải cách. Các luật lệ thương mại toàn cầu cần được cập nhật trong khi
cấu trúc quản trị lỗi thời của IMF và Ngân hàng Thế giới làm suy yếu tính hợp
pháp, tài trợ và hiệu quả của chúng. Ngân sách của Tổ chức Y tế Thế giới nhỏ
hơn ngân sách của hầu hết các bệnh viện lớn và dành quá nhiều kinh phí của nó,
trong khi tư cách thành viên của Cơ quan Năng lượng Quốc tế vẫn không bao gồm
phần lớn người tiêu dùng năng lượng trên thế giới.
Triggs nói: ‘Hậu quả của những thể chế lạc
hậu này là giống nhau: Phân mảnh hơn và ảnh hưởng của Hoa Kỳ ít hơn. Khi nguồn
tài trợ, tính hợp pháp và hiệu quả của các thể chế này giảm đi, các đối thủ
cạnh tranh trong khu vực xuất hiện’. Đối với WTO, đó là rất nhiều hiệp định
thương mại song phương và đa phương. Đối với IMF, đó là Cơ chế ổn định châu Âu,
Sáng kiến Chiang Mai và hàng trăm dòng hoán đổi tiền tệ song phương. Đối với Ngân hàng Thế giới, đó là Ngân hàng Phát triển Châu Á, Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á và nhiều ngân hàng khác.
Lần đầu tiên sau hơn 10 năm, Tổng thống Biden có cơ
hội để sửa chữa điều này. Với sự liên kết của Nhà Trắng và cả hai viện của Quốc
hội, Hoa Kỳ có thể dẫn đầu cải cách các định chế này và tạo ra các luật lệ mới
mà các định chế này còn thiếu hiện nay.
Triggs nói: “Về mặt lịch sử, những cải cách
thành công trong quản trị toàn cầu đòi hỏi ít nhất ba điều: Sự lãnh đạo từ Tổng
thống Hoa Kỳ, sự chấp thuận của Quốc hội Hoa Kỳ (ít nhất là khi cần tài trợ) và
một túc số các nước lớn ủng hộ sự thay đổi. Lần đầu tiên sau hơn một thập kỷ cả
ba mảnh khó ghép chung đó có thể đã xác lập”.
Đông đảo các quốc gia ủng hộ việc cải cách các định
chế toàn cầu, đặc biệt ở châu Á. Triggs nói: “Indonesia sẽ tổ chức G20 vào
năm tới và là nước đi đầu trong vấn đề cải cách WTO. Ký ức cay đắng của châu Á
về những thất bại trong quá khứ của IMF đã chứng kiến IMF dành
nhiều thập niên
kêu gọi cải
cách. Một khu vực
khao khát đầu tư
sẽ được hưởng
lợi đáng kể
từ các ngân
hàng phát triển
được cải cách
và phối hợp
tốt hơn trong khi biến
đổi khí hậu
là cơ hội
cho sự tham gia mang tính xây dựng trên một ưu tiên
chung giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc và khu vực châu Á”.
Áp lực đối với Tổng thống Biden rất dữ dội. Những
thách thức mà ông phải đối mặt là rất lớn và tương quan với nhau. Kỳ vọng rất
cao, cả trong và ngoài nước, và hậu quả sẽ nặng nề nếu ông thất bại. Trong
chính sách đối ngoại, đặt cược tốt nhất của ông là nhắm vào một cái gì đó quan
trọng sẽ lấy được lòng tin một châu Á đầy hy vọng nhưng vẫn còn hoài nghi, điều
đó sẽ củng cố vai trò hiệu quả của Mỹ trong khu vực và điều đó sẽ tồn tại lâu
dài sau nhiệm kỳ tổng thống của ông. Cải cách các thể chế toàn cầu nên được ông
đặt lên hàng đầu.
______
Ban
biên tập EAF đặt tại Trường Chính sách Công Crawford, Trường Đại học Châu Á và
Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Úc.
No comments:
Post a Comment