Thủy
điện nhỏ và vấn đề lũ lụt
02/12/202
https://baotiengdan.com/2020/12/02/thuy-dien-nho-va-van-de-lu-lut/
1. VỀ TÁC ĐỘNG ĐA DẠNG CỦA THUỶ
ĐIỆN Ở BA MIỀN BẮC – TRUNG – NAM
Thuỷ điện là nguồn năng
lượng quý giá. Nhưng phải được sử dụng một cách khoa học. Nếu không, nó sẽ mang
lại những tác hại khôn lường.
Trong thời kỳ phát triển
công nghiệp ban đầu, các quốc gia đều cần đến thuỷ điện và thường tập trung
phát triển thuỷ điện. Sự phụ thuộc lớn vào thuỷ điện đã dẫn đến các vi phạm vượt
ngoài tầm kiểm soát và để lại các tác hại cho con người cùng môi trường. Mức độ
tác hại có khác nhau tuỳ theo sự kiểm soát ở mỗi quốc gia.
Cho đến cuối thế kỷ 20,
và đầu thế kỷ 21, sự phát triển thuỷ điện ở các nước công nghiệp phát triển đã
có những thay đổi quan trọng. Nhờ sự tiến bộ công nghệ, năng lượng tái tạo như
điện mặt trời, điện gió, điện thuỷ triều đã tăng đột phá thị phần, từng bước
thay thế cho các năng lượng truyền thống. Vì thế, các dự án thuỷ điện mang lại
nhiều tác hại xấu không được đón chào. Nhiều thuỷ điện không được mở rộng hoặc
ngừng khai thác. Hàng ngàn đập thuỷ điện đã được dỡ bỏ.
Với Việt Nam, thuỷ điện
đang mang đến những thách thức sống còn cho nhiều thế hệ con người, động vật,
sinh vật trên phạm vi toàn lãnh thổ.
Ở đồng bằng sông Cửu
Long, việc Trung Quốc xây hàng chục thuỷ điện lớn trên thượng nguồn sông Mê
Kông là những cú đòn chí tử lên toàn bộ môi trường sống. Sau Trung Quốc, các đập
thuỷ điện của Lào, Campuchia trên sông Mê Kông, của Myanmar, Thái Lan và Việt Nam
trên lưu vực sông Mê Kông đã đồng loạt trở thành những đòn đánh bồi tổng hợp –
đưa môi trường sống ở đồng bằng sông Cửu Long dần vào hoàn cảnh nguy hiểm.
Mức nước sông Cửu Long bị
khô cạn. Trong nước không còn phù sa. Nước biển lấn tràn sâu vào nội địa lên đến
80-100km. Toàn bộ môi trường sống của đồng bằng sông Cửu Long bị thay đổi. Phải
chống ngập mặn, chống hạn hán, tìm nguồn nước ngọt. Con người bị đe doạ, cá tôm
bị đe doạ, cây trồng bị đe doạ. Mức đe doạ đạt tới biên giới sinh tử. Hàng chục
vấn đề trầm trọng đặt ra cho cư dân đồng bằng sông Cửu Long. Phải thay đổi cơ cấu
cây trồng, thuỷ sản. Phải thay đổi cơ cấu cư dân. Đến mức con người cũng phải
di tản.
Ở đồng bằng sông Hồng,
tuy chưa có mức độ ngập mặn, nhưng một bức tranh xấu đang hiện ra mỗi ngày một ảm
đạm hơn.
Nếu thuỷ điện Hoà Bình và
thuỷ điện Thác Bà vừa đưa lại nguồn điện, vừa giúp cắt lũ cho thủ đô Hà Nội, có
làm cạn dòng chảy sông Hồng, nhưng chưa đến mức nguy hiểm, thì việc xây dựng
thêm các thuỷ điện Sơn La, Lai Châu và cả trăm thuỷ điện khác trên lưu vực sông
Đà và sông Lô đã làm cho đồng bằng sông Hồng rơi vào hoàn cảnh môi sinh bị đe
doạ. Chưa kể đến trước đó, hàng chục thuỷ điện của Trung Quốc xây dựng ở thượng
nguồn sông Hồng – là những chiếc thòng lọng đón chờ mọi cá thể trong toàn bộ hệ
sinh thái châu thổ sông Hồng. Các dòng sông bị cạn. Các mạch nước ngầm bị cạn.
Kéo theo sự thay đổi của thuỷ mạch và toàn bộ hệ sinh thái ở châu thổ sông Hồng.
Thuỷ mạch thay đổi, các vết
nứt địa chất gia tăng khi phải hứng chịu hai khối nặng khổng lồ ở Hoà Bình và
Sơn La, mỗi hồ nước nặng khoảng 10 tỷ tấn và 10 tỷ tấn ở các hồ nước khác. Khả
năng gia tăng động đất là không tránh khỏi. Hãy đợi chờ nhiều hơn những cơn động
đất ở vùng Tây Bắc trong tương lai.
Ở miền Trung, thuỷ điện
đưa đến các hậu quả không kém phần nguy hiểm, nhưng có thêm phần khác lạ. Với địa
hình dốc từ Tây sang Đông, có nơi chỉ 40-50km, sông miền Trung ngắn nhưng có độ
dốc lớn. Chính độ dốc lớn của sông miền Trung là nguyên do sinh ra chi chít những
thuỷ điện nhỏ. Len lỏi quanh co giữa các khe núi cao, là nơi hứng nước mưa chảy
từ các triền núi, với độ dốc đột ngột, cứ cách khoảng 10-20 km, thậm chí 5 -7
km đắp một chiếc đập là tạo nên một trạm thuỷ điện. Cụ thể như trên 24 km của
sông Rào Trăng mà có đến 4 nhà máy thuỷ điện. Miền Trung là cứ địa của các thuỷ
điện “cóc”. Và đó cũng chính là nguồn cơn đưa đến tai hoạ lũ lụt và sụt lở đất
nguy hiểm ngày một nhiều hơn cho miền Trung.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/12/RT3.png
Vị trí thủy điện
Rào Trăng 3. Ảnh: Google Map
Rõ ràng, ngoài tai hoạ biến
đổi hệ sinh thái và môi trường sống ở cả 3 miền, thì tác động của thuỷ điện ở mỗi
miền có những phương diện khác biệt. Thuỷ điện đưa đến cho đồng bằng sông Cửu
Long trực diện nạn hạn hán, nạn ngập mặn, nạn thiếu nước ngọt – dẫn đến thay đổi
cơ cấu kinh tế và cư dân. Còn ở đồng bằng châu thổ sông Hồng thì thuỷ điện mang
đến sự thay đổi thuỷ mạch và tăng nguy cơ động đất. Và ở miền Trung, thì thuỷ
điện tham gia đưa đến các cơn lũ lụt và sụt lở đất kinh hoàng.
2. PHẢI HIỂU CHO ĐÚNG KHÁI NIỆM
RỪNG TỰ NHIÊN
Loài người xuất hiện sau
rừng tự nhiên. Đó là điều không phải bàn luận. Cho nên mỗi m2 rừng trước đây đều
là rừng tự nhiên.
Khi con người tiến vào rừng,
đất nhà, đất nương rẫy của họ đều là rừng tự nhiên bị họ khai phá. Có m2 đất
nào giữa vùng rừng núi mà không phải là rừng tự nhiên? Ngay cả các hồ tự nhiên,
các dòng sông dòng suối giữa núi rừng đều là đất của rừng tự nhiên. Cho nên, đừng
thấy vùng cư dân, thấy nương rẫy, thấy đồi trọc mà khẳng định là không phải rừng
tự nhiên. Xa xưa đó là rừng tự nhiên. Bây giờ thì nó đã bị con người tàn phá.
Những ai đã đến rừng Tây
Nguyên sau năm 1975 mới thấy rừng tự nhiên bạt ngàn như thế nào. Bây giờ quay
trở lại có thể nói rất ít nơi còn rừng tự nhiên đúng nghĩa. Theo đánh giá,
thì lượng rừng nguyên sinh của Việt Nam chỉ còn khoảng 0,25%.
Dù rằng theo báo cáo của Bộ NN&PTNN, thì tính đến ngày 31/12/2019 diện tích
đất có rừng của Việt nam là 14,6 triệu ha (146.000km2), trong đó rừng tự nhiên
là 10,3 triệu ha và rừng trồng là 4,3 triệu ha. Diện tích đất có rừng đủ tỷ lệ
tính độ che phủ là 13,8 triệu ha, tỷ lệ che phủ khoảng 41,89% diện tích toàn quốc. Tỷ
lệ che phủ này thấp hơn 2 nước láng giềng là Lào (58%) và Campuchia (47%).
Ba tỉnh có diện tích rừng
tự nhiên lớn nhất, dẫn đầu là Nghệ An (784.340ha), tiếp theo là Sơn La
(588.343ha) và Kon Tum (547.800ha).
Theo thông tin của Sở Tài
nguyên Môi trường Đắk Lắk cho biết, rằng ở độ dốc 5-8 độ, dưới lượng mưa hàng
năm 1.905mm thì trên 1ha đất cà phê 2 tuổi sẽ bị trôi đi 69,2 tấn đất, 1ha đất
nương rẫy sẽ bị trôi đi 95,1 tấn đất, trên 1ha đất trồng ngô sẽ bị trôi đi
105,7 tấn đất. Nhưng trên 1ha đất rừng nguyên sinh chỉ bị trôi đi không quá 6 tấn
đất, và 1ha đất rừng tái sinh bị trôi đi 12 tấn đất. Những con số trên nói lên
sự vô giá của rừng nguyên sinh trong bảo vệ đất.
Đưa ra số liệu trên để thấy
tại sao nạn sụt đất kinh hoàng đã xẩy ra như trong các cơn lũ lụt thời gian vừa
qua ở các tỉnh miền Trung. Đó là vì rừng tự nhiên bị tàn phá. Trong sự huỷ diệt
rừng tự nhiên ở Việt Nam có vai trò không nhỏ của thuỷ điện.
3. DIỆN TÍCH DÀNH CHO THUỶ ĐIỆN
NHỎ MIỀN TRUNG TUYỆT ĐẠI ĐA SỐ LẤY TỪ ĐẤT RỪNG TỰ NHIÊN
Bằng điện thoại cầm tay,
với sự giúp đỡ của Google maps, không khó để nhận thấy các thuỷ điện nhỏ hoàn
toàn nằm trong rừng tự nhiên. Hãy thử tự kiểm nghiệm các thuỷ điện A Lin B1, A
Lin B2, Rào Trăng 3, Rào Trăng 4 để thấy điều khẳng định này. Nghĩa là toàn bộ
đất cấp cho thuỷ điện, trừ một phần nhỏ hồ tự nhiên có trước, đều hoàn toàn thuộc
về diện tích rừng tự nhiên. Phần hồ mở rộng (nhiều lần) – hình thành sau khi đắp
đập thuỷ điện – cũng đều là diện tích của rừng tự nhiên. Hơn thế nữa toàn bộ
các đường giao thông đi đến các nhà máy thuỷ điện này đều làm trên đất rừng tự
nhiên.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/12/T%C4%90.png
Vị trí thuỷ điện A
Lin B1. Ảnh: Google Map
Điều mâu thuẫn của người
bảo vệ thuỷ điện nằm ở chỗ, khi báo cáo diện tích phủ xanh của rừng tự nhiên,
thì họ lấy toàn bộ diện tích rừng tự nhiên (dù đã bị tàn phá) để có được 10,3
triệu ha, nhưng khi nói đến thuỷ điện thì họ lại nói không 1m2 đất rừng tự
nhiên nào được cấp cho thuỷ điện. Vậy từ hàng chục đến hàng trăm ha đất cấp cho
mỗi thuỷ điện nhỏ – không nằm trong rừng tự nhiên thì nằm ở đâu? Các thuỷ điện
nhỏ, bởi vậy, lại là “con thú khổng lồ” ngốn rừng tự nhiên.
Một nguyên do khác nữa
làm giảm rừng tự nhiên là việc lợi dụng xây dựng thuỷ điện để khai thác gỗ.
Không chỉ trong diện tích rừng cấp cho thuỷ điện và làm đường giao thông, mà là
ngoài các diện tích đó. Số lượng này không hề nhỏ.
4. CÁC NGUY CƠ MẤT AN TOÀN
TRONG XÂY DỰNG THUỶ ĐIỆN NHỎ Ở MIỀN TRUNG
Thập niên đầu của thế kỷ
21 ở Việt Nam diễn ra những cuộc “thập tự chinh” náo loạn. Đó là các tập đoàn,
các doanh nghiệp, các gia đình, các cá nhân – tất cả – đổ xô đi làm bất động sản,
kinh doanh khách sạn, kinh doanh ngân hàng, buôn bán chứng khoán… Hậu quả là
lãi suất ngân hàng tăng vọt đến 25% và nền kinh tế đổ bể. Cuối cùng thì các tập
đoàn lớn, trong đó có người khổng lồ Vinashin bị chìm xuống đáy, và các tập
đoàn Sông Đà, dầu khí… phải rút ra khỏi các lĩnh vực ngoại đạo, mà quay trở về
chuyên môn với “đầy mình thương tích”.
Nổi trội trong số các cuộc
“thập tự chinh” náo loạn đó là cuộc “chinh phạt” thuỷ điện nhỏ. Khắp Bắc –
Trung – Nam, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù có vốn pháp định từ vài tỷ cho
đến vài trăm tỷ đồng đều đổ xô đi làm thuỷ điện. Vốn cần ghi bao nhiêu cũng
không khó. Nên các công ty tư nhân, công ty cổ phần vừa thành lập đều có thể
làm thuỷ điện. Họ nhận được dự án, bất chấp năng lực thực tế, miễn là biết đi
đúng đường. Và không ít các dự án đã được bán lại cho các chủ mới.
Không có các chuyên gia
giỏi trong ngành thuỷ điện. Không khảo sát địa chất. Không nghiên cứu tác hại
môi trường. Nhưng hồ sơ vẫn hoàn chỉnh, kín kẽ. Lập hồ sơ dự án ở nước ta đã trở
thành một lĩnh vực nhiệm mầu của copy và thuê viết. Mà đâu chỉ hồ sơ dự án, nhiều
luận án từ tốt nghiệp đại học, cho đến thạc sĩ và tiến sĩ ở nhiều nơi – đều được
sinh ra từ copy và thuê viết. Hãy tự gõ vào google để kiểm nghiệm sự rao bán.
Hãy tự kiểm tra để đừng cho là bôi đen hay vơ đũa cả nắm.
Còn thiết bị từ đâu? – từ
Trung Quốc, dù dán mác G7. Đắp đập thành hồ. Mua thiết bị và thuê người lắp đặt
là thành thuỷ điện. Người bán thiết bị đến lắp đặt xong thì về nước. An toàn
hay không thì mặc nơi có thuỷ điện phải gánh chịu. Đây chính là mối nguy về sự
không an toàn trong xây dựng thuỷ điện nhỏ.
Một mối nguy không an
toàn khác chính là việc xây dựng đường giao thông đến thuỷ điện nhỏ. Các nhà đầu
tư chỉ chú trọng đến chi phí. Họ chọn những cung đường ngắn nhất dù phải làm đường
dưới sườn núi dốc đứng. Những con đường không đủ rộng. Họ bạt rừng để làm đường.
Nguy cơ sạt lạt lở ở các con đường dẫn đến thuỷ điện nhỏ rất cao, đầy ắp nguy
hiểm. Các trận lũ lụtvà sụt lở đất trong tháng 10/2020 ở miền Trung đã minh chứng
điều đó.
5. CÁC HỒ CHỨA NƯỚC CỦA THUỶ
ĐIỆN NHỎ Ở MIỀN TRUNG KHÔNG GIÚP GIẢM ĐƯỢC LŨ LỚN
Sông Rào Trăng chỉ dài
26km với lưu vực 141km2 nhưng lại có đến 4 thuỷ điện A Lin B1 (42 MW), A Lin B2
(20 MW), Rào Trăng 3 (11 MW, lòng hồ 8,8ha), Rào Trăng 4 (14 MW, lòng hồ
22,281ha). Như vậy khoảng cách trung bình giữa các thuỷ điện chừng 8km. Một khoảng
cách quá dày đặc.
Thuỷ điện A Lin B1 có hồ
chứa nước 24,8 triệu m3, lấy nước từ suối A Lin trong mạng lưới song Sê Kông –
Mekong sang Rào Trăng. Còn 3 thuỷ điện A Lin B2 , Rào Trăng 3, Rào Trăng 4 lấy
nước lưu vực sông Rào Trăng.
Để minh chứng các thuỷ điện
nhỏ trên sông Rào Trăng không có khả năng làm giảm lũ trong mùa lũ, hãy lấy thí
dụ về thuỷ điện Rào Trăng 4 trong đợt lũ vừa qua.
Đợt mưa vừa qua trong suốt
một tuần ở khu vực này đo được từ 2.200 – 2.500 milimet. Nếu lấy mức thấp nhất
là 2.200 milimet thì lượng nước lưu vực sông Rào Trăng là 141km2 x 2.200
milimet = 310,2 triệu m3. Còn tính cho cả huyện A Lưới sẽ là 1.232,7 km2 x
2.200 milimet = 2 tỷ 711.940.000m3.
Lòng hồ thuỷ điện Rào
Trăng 4 là 22,281ha. Theo quy trình xả lũ, mà Bộ Công Thương duyệt cho thuỷ điện
Rào Trăng 4 thì mực nước dâng bình thường 99,5m; mực nước chết: 93,0m. Cụ thể
như sau:
“1. Cao trình mực nước lũ
của hồ chứa thuỷ điện Rào Trăng 4 trong mùa lũ ở điều kiện bình thường khi
không có lũ không được vượt quá cao trình mực nước 99,5m;
2. Quy định về chế độ vận
hành
Căn cứ dự báo của cơ quan
dự báo khí tượng thủy văn có thẩm quyền và quan trắc của Công ty Cổ phần Thủy
điện Rào Trăng 4 về số liệu mưa, lưu lượng lũ vào hồ và mực nước hồ chứa,
phương thức vận hành cửa van đập tràn như sau:
a) Nguyên tắc cơ bản: Duy
trì mực nước hồ ở cao trình mực nước dâng bình thường 99,50m bằng chế độ xả nước
qua các tổ máy phát điện và chế độ đóng mở cửa van đập tràn.
b) Trong trường hợp bình
thường từ thời điểm lũ vào hồ đến khi đạt đỉnh, việc mở các cửa van đập tràn phải
tiến hành lần lượt để tổng lưu lượng xả qua các tổ máy phát điện và đập tràn
không được lớn hơn lưu lượng tự nhiên vào hồ tại cùng thời điểm.
– Đảm bảo an toàn tuyệt đối
cho công trình đầu mối thủy điện Rào Trăng 4, chủ động đề phòng mọi bất trắc, với
mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại nhỏ hơn hoặc bằng 500 năm; không để mực nước hồ
chứa Rào Trăng 4 vượt mực nước lũ kiểm tra ở cao trình 101,27m”.
Như vậy, trên 101,27m là
hoàn toàn xả lũ. Lúc đó mực nước giữ thêm cho phép tối đa chỉ có: 101,27m –
99,5m = 1,77m. Lượng nước chứa thêm 222.810m2 x 1,77m = 403.737m3. Một con số
vô cùng nhỏ nhoi so với 310,2 triệu m3, chỉ bằng 0,13%. Vậy làm sao dám gọi là
“cắt lũ”?
Còn nếu tính ưu ái cho
thuỷ điện Rào Trăng 4, rằng trước khi lũ, mực nước ở mức chết là 93,0m, thì mức
nước giữ thêm cũng chỉ là 101,27m – 93,0m = 8,27m. Và lượng nước chứa thêm được
so với mức chết là 222.810m2 x 8,27m = 1 triệu 842.638 m3. Vẫn là con số vô
cùng nhỏ so với 310,2 triệu m3 (0,59%). Thuỷ điện nhỏ không giúp giảm được lũ
là bởi thế.
Còn nếu ai đó nói rằng
lòng hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 vào mùa lũ lớn hơn 22,281 ha, thì chính họ đã chỉ
ra sự sai trái trong cấp phép. Lòng hồ là diện tích đất được cấp. Nó phải được
tính toán ở mức nước cao nhất của hồ chứa nước. Đó chính là mức nước hồ ở độ
cao ngang với đập.
Thí dụ cụ thể của thuỷ điện
Rào Trăng 4 đã chỉ ra rằng thuỷ điện nhỏ không thể giúp gì được cho giảm lũ. Đó
là chưa bàn đến ở đây, việc xả lũ làm tăng thêm thiệt hại to lớn cho người dân
trong mùa lũ.
6. HIỂU THẾ NÀO CHO ĐÚNG KHÁI
NIỆM “CẮT LŨ”?
Nếu cứ nghe theo những
chuyên gia bảo vệ cho thuỷ điện nhỏ ở miền Trung thì thuỷ điện nhỏ có vai
trò “cắt lũ” đến mức vĩ đại. Chẳng hạn như, họ đã đưa ra
các con số rằng
“Tại miền Trung, các hồ
thủy điện cũng đã góp phần không nhỏ vào việc cắt lũ, như hồ Quảng Trị 21%,
Hương Điền cắt tới 45% đỉnh lũ, hồ Bình Điền 42,3%, Sông Bung 4 cắt 42,7%, Đăk
Mi 4 cắt 74,7%, đặc biệt trận lũ ngày 29/10, hồ Sông Tranh 2 cắt tới hơn 50%”…
Làm sao mà có thể cắt lũ
đến mức 50%? 74,7%? Đây chỉ là trò chơi con số. Là cách hiểu khác nhau về 2 từ
“cắt lũ”.
Bởi vì những người đưa ra
chỉ số “cắt lũ” này dựa vào tỷ lệ lưu lượng nước đổ về hồ và lưu lượng nước xả
qua đập thuỷ điện để ghi công cho thuỷ điện “cắt lũ”. Chẳng hạn lưu lượng đổ về
đầu hồ là 100 m3/s và lưu lượng xả qua đập thuỷ điện cuối hồ là 80 m3/s. Lúc
đó, có lẽ những nhà điều tiết xả lũ cho rằng họ đã cắt được lũ 20m3/s. Và tỷ lệ
“cắt lũ” là 20/100 = 20%?
Thực ra hồ chứa nước của
thuỷ điện không giữ lại 20% lượng nước lũ trong thí dụ trên. 20 m3 nước đó chỉ
bị lưu giữ chậm lại, và chỉ 0,25 giây sau nó sẽ đi qua cửa xả của đập thuỷ điện.
Nghĩa là sau 1,25 giây thì toàn bộ 100 m3 nước đi qua đập thuỷ điện, không giọt
nào lưu lại hồ. Nước lũ chỉ bị dồn lại trước đập thuỷ điện và thông qua đập thuỷ
điện với độ trễ. Giống như dòng người ở trạm soát vé. Khi lũ tiếp tục tràn về,
nước dâng lên đến mức cho phép tối đa thì phải xả lũ đúng bằng lượng nước đổ về
hồ, nếu không nước sẽ tràn qua đập và có thể gây vỡ đập.
Cách tính “cắt lũ” như
trên gây ra hiểu nhầm là hồ thuỷ điện giữ lại được một lượng nước đến 50%,
74,7% toàn bộ lượng nước lũ.
Bởi thế, phải hiểu cho
đúng khái niệm “cắt lũ”. Như thí dụ của thuỷ điện Rào Trăng 4 nêu ở trên, thì
thực tế hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 chỉ giữ thêm được có 1,77m chiều cao mặt hồ nước,
tương đương với 403 737 m3.
Các ‘hiệp sỹ” bảo vệ thuỷ
điện nhỏ, trớ trêu thay tự mâu thuẫn với chính họ. Họ biện luận về “cắt lũ”
giúp dân khi lũ không đủ lớn. Khi lũ lên cao thì đột ngột ồ ạt xả lũ để bảo về
đập, rồi họ lại thanh minh là không làm cho lũ trầm trọng, vì xả đúng lượng nước
đổ về đầu hồ. Chỉ có người dân địa phương nơi vùng bị xả lũ mới biết được việc
xả lũ của thuỷ điện đã đẩy họ vào thảm cảnh bi đát như thế nào!
7. ĐỪNG SO SÁNH VỚI CHÂU ÂU
Có người vin vào số lượng
thuỷ điện nhỏ ở châu Âu để cổ suý cho thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam.
Nhưng đó là 2 thế giới
khác nhau. Ví như cùng là cảnh sát giao thông, mà cảnh sát giao thông Singapore
không hề nhận hối lộ, trong khi điều đó lại xẩy ra ở nước hàng xóm Malaysia.
Như ngay tại phần đầu đã
lưu ý, thuỷ điện là năng lượng quý giá trong trường hợp nó được sử dụng một
cách khoa học. Thuỷ điện nhỏ được xây dựng và khai thác ở châu Âu trong một thực
tế khác hoàn toàn với Việt Nam, dù quy trình trên giấy có vẻ gần giống nhau.
Để nói lên sự khác biệt
giữa châu Âu và Việt Nam trong cách làm thuỷ điện nhỏ, thì trước hết là phải
nói đến quy trình và sự tuân thủ quy trình. Ở Việt Nam không có sự tuân thủ quy
trình như ở châu Âu. Tính nghiêm ngặt trong tuân thủ pháp luật ở 2 nơi là rất
khác biệt. Còn nữa, thêm một minh chứng về yêu cầu bảo vệ môi trường ở châu Âu,
không chỉ trong lĩnh vực thuỷ điện, là sự tồn tại cả những đảng phái chính trị
bảo vệ môi trường – chẳng hạn như đảng Xanh, có ở nhiều quốc gia châu Âu.
Không ai chống thuỷ điện
nhỏ khi nó được khai thác một cách khoa học. Nhưng ở Việt Nam, thuỷ điện nhỏ
đang tàn phá rừng, làm tăng thêm sụt lở, làm trầm trọng thêm lũ lụt, làm thay đổi
môi sinh. Bởi vì việc xây dựng thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam thoát ra ngoài tầm kiểm
soát. Và không có cách nào để kiểm soát được trong cơ chế hiện nay.
Khi không kiểm soát được,
thì cách tốt nhất là dừng.
8. THUỶ ĐIỆN ĐÃ TỚI HẠN
Theo thống kê của Bộ Công Thương, đến cuối năm 2018
cả nước có 818 dự án thuỷ điện đã được phê duyệt với tổng công suất 23.182 MW.
Hiện có 385 công trình thuỷ điện đang vận hành với tổng công suất 18.564 MW.
143 dự án đang xây dựng có công suất 1.848 MW. 290 dự án đang nghiên cứu có tổng
công suất 2.770 MW. Tổng công suất điện toàn quốc năm 2018 đạt khoảng 48.000
MW. Như vậy thuỷ điện chiếm khoảng 38,675% công suất lắp đặt. Kế hoạch đến năm
2030 của thuỷ điện là 25.400 MW.
Nhu cầu về điện tăng rất
nhanh do đòi hỏi phát triển của đất nước. Tổng công suất điện đã lắp đặt của cả
nước năm 2019 đạt 54.880MW. Phải dự liệu tăng trưởng điện ở mức độ từ 10-12%
hàng năm. Nhiệt điện than cần phải hạn chế do mức độ ô nhiễm. Còn thuỷ điện đã
đạt mức tới hạn. Nếu tính cả 143 dự án đang triển khai thì tổng công suất của
thuỷ điện đạt 20.412 MW. Nếu tiếp tục triển khai hết 290 dự án đang nghiên cứu
cũng chỉ cho thêm 2.770 MW. Tiếp tục theo kế hoạch đến năm 2030 để đạt 25.400
MW thì cũng chỉ tăng thêm 2.218 MW. Nghĩa là không đủ đáp ứng cho nhu cầu tăng
trưởng điện trong 1 năm. Bởi vậy, không nên phát triển các dự án thuỷ điện mới
nữa, và dừng hoàn toàn các dự án thuỷ điện nhỏ mà chưa triển khai, nhất là tại
khu vực miền Trung.
Thay vào đó là điện mặt
trời và điện gió. Tính đến tháng 6/2019, đã có 89 nhà máy điện gió và điện mặt
trời hòa lưới với tổng công suất 5.038 MW, chiếm khoảng 9,18% tổng công suất điện
quốc gia. Theo kế hoạch, đến 31/12/2019 sẽ có thêm khoảng 1.000 MW năng lượng
tái tạo hoà vào lưới điện quốc gia. Phát triển mạnh điện mặt trời và điện gió
là hướng chiến lược chủ đạo dài lâu của Việt Nam. Nhất là điện mặt trời. Vì Việt
Nam nằm trong vùng nhiệt đới.
Vì rừng bị tàn phá, đồng
bào miền Trung không chỉ sẽ phải đối mặt với lũ lụt ngày càng hung dữ, mà còn
phải sống trong nơm nớp lo âu của sụt lở đất kinh hoàng. Trong số các kẻ thù hiểm
ác của rừng, phải kể đến: lâm tặc, sự di dân, sự bành trướng đô thị, sự phá rừng
trồng cây lương thực và cây công nghiệp, sự xâm chiếm của các dự án, và thuỷ điện.
Cách tốt nhất giúp cho đồng bào miền Trung bớt lũ và tránh sụt lở đất là bảo vệ
rừng, trồng thêm rừng, và thay thế thuỷ điện bằng năng lượng tái tạo.
Không ai chống làm thủy
điện một cách khoa học. Chỉ chống cách làm thủy điện nhỏ hỗn loạn như hiện nay.
No comments:
Post a Comment