Làm
sao để quy trách nhiệm cho các doanh nghiệp vi phạm luật quốc tế?
PHÙNG ANH KHƯƠNG - Luật
Khoa
23/12/2020
Luật quốc tế quy định nhiều, nhưng yếu.
Có cách khác để “đánh vào túi tiền” doanh nghiệp vi phạm.
Đồ họa: Bryter/Luật
Khoa.
Một báo cáo điều tra mới đây tại Myanmar cáo buộc rằng nhiều
ngân hàng, doanh nghiệp Việt Nam và quốc tế có thể đang vô tình trực tiếp hay
gián tiếp trợ giúp cho các hành vi giết hại thường dân và xâm phạm nhân quyền của
quân đội Myanmar.
Vậy cụ thể thì luật pháp
quốc tế nói gì về trách nhiệm hình sự của các doanh nghiệp và ngân hàng tư
nhân?
Câu trả lời ngắn là có
nói, nói nhiều, nhưng chỉ mới nói thôi chứ chưa thể… đánh.
Ba nhóm tội hình sự
nghiêm trọng nhất và hai mức trách nhiệm trong luật quốc tế
Luật quốc tế có nhiều nguồn
gốc, chủ yếu là các công ước, hiệp ước quốc tế giữa các nước, các thông lệ hay
tập quán quốc tế, và các án lệ từ các tòa án quốc tế.
Một xuất phát điểm khả
tín khi bàn về các tội hình sự được công nhận sâu rộng trong luật quốc tế là hiệp
ước Quy chế Rome về Tòa Hình sự Quốc tế. Hiệp ước này thiết lập
Tòa Hình sự Quốc tế (International Criminal Court), có hiệu lực từ năm 2002 và
đã được 123 nước ký kết tham gia (không có Việt Nam và Myanmar).
Hiện nay luật quốc tế đã
xác định được ba nhóm tội hình sự nghiêm trọng nhất: diệt chủng (genocide), các
tội ác chiến tranh (war crimes) và các tội ác chống lại loài
người (crime against humanity).
Khi xác định mức độ vi phạm
vào ba nhóm tội nói trên, các tòa án thường chia ra làm hai mức:
·
Vi phạm trực tiếp, kéo
theo đó là trách nhiệm trực tiếp (primary liability). Tức là trách nhiệm của kẻ
“cầm dao giết người”;
·
Vi phạm gián tiếp, kéo
theo đó là trách nhiệm gián tiếp hay trách nhiệm liên đới (secondary
liability). Tức là trách nhiệm của kẻ “mài dao và đưa dao cho kẻ cầm dao giết
người”.
Theo ngôn ngữ pháp lý,
các hành vi vi phạm gián tiếp chính là các hành vi trực tiếp góp tay trợ
giúp (aiding), hay động viên xúi giục (abetting), hay
ở một mức nhẹ hơn là hỗ trợ (assist) hành vi vi phạm trực tiếp.
Trách nhiệm hình sự
liên đới của doanh nghiệp
Trong lịch sử luật quốc tế,
các doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp từng trợ giúp cho chính quyền Đức Quốc Xã
trong các thảm họa diệt chủng thời Thế chiến II là những đối tượng đầu tiên phải
ra tòa và bị tuyên án chịu trách nhiệm liên đới tới ba nhóm tội hình sự nghiêm
trọng nhất.
Ví dụ, Bruno Tesch và
Karl Weinbacher là hai bị cáo bị Tòa án Quân sự của quân đội Anh quốc kết án tử hình năm 1946 trong vụ án Zyklon B. Đây là
hai nhân vật chủ chốt điều hành doanh nghiệp Tesch & Stabenow. Công ty này
đã sản xuất và cung cấp cho phát xít Đức hóa chất Zyklon B, vốn được dùng trong
các lò hơi ngạt đã giết hại hơn sáu triệu người Do Thái.
Tesch và Weinbacher bị
các luật sư người Anh truy tố với cáo buộc rằng khi cung cấp Zyklon B cho phát
xít Đức, hai bị cáo biết rõ hóa chất này đã được sử dụng để giết người hàng loạt
trong các trại tập trung. Vì thế, hai bị cáo này có tội, cho dù họ chưa bao giờ
tham gia lực lượng phát xít Đức, cũng như chưa bao giờ có mặt tại các trại tập
trung nơi xảy ra các vụ thảm sát.
Với các bằng chứng và
nhân chứng cụ thể (bao gồm nhiều nhân viên công ty Tesch & Stabenow), cả
hai bị cáo bị kết án và xử tử bằng cách treo cổ vào năm 1946.
Nhãn hiệu hóa chất
Zyklon B của công ty Tesch & Stabenow được dùng làm bằng chứng tại phiên
toà. Ảnh: USHMM/National Archives.
Vụ án Tesch và Weinbacher
có thể xem là “án lệ” đầu tiên trong luật quốc tế về trách nhiệm liên đới của một
doanh nghiệp trong một tội ác chiến tranh.
Sau vụ án đó, không có
nhiều trường hợp thành công khi truy tố các doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp vì
trách nhiệm liên đới trong các tội hình sự quốc tế nghiêm trọng.
Nguyên do là vì sau Thế
chiến II không còn các tòa án quân sự – hay tòa án của “bên thắng cuộc”
– vốn có thể thoải mái dùng sức mạnh quân đội để tự áp đặt quyền xét xử của nước
họ lên các cá nhân và doanh nghiệp của các nước thuộc “bên thua cuộc”.
Trong một thế giới hậu Thế
chiến tương đối hòa bình với các quốc gia có chủ quyền độc lập và các hệ thống
trật tự quốc tế cụ thể tôn trọng chủ quyền độc lập (ví dụ như Liên Hợp Quốc hay
các tòa án quốc tế như Tòa Hình sự Quốc tế), nhiệm vụ điều tra truy tố và xét xử
các tội hình sự quốc tế nghiêm trọng dần dần được phân tán ra cho nhiều tổ chức,
nhiều hệ thống tòa án khác nhau tại các vùng lãnh thổ khác nhau.
Các câu hỏi lớn nhất khi
xử lý các cáo buộc tội hình sự quốc tế nghiêm trọng chính là:
·
Dùng cơ chế gì để điều tra truy
tố?
·
Dùng cơ chế gì để cưỡng ép xử
phạt?
·
Đem ra tòa nào xử đây?
Trả lời được hai câu hỏi
đầu tiên thì sẽ suy ra được câu hỏi thứ ba. Tuy nhiên, ba câu hỏi này chỉ là “vòng
gửi xe”.
Các cơ chế quy kết
trách nhiệm của các doanh nghiệp theo luật quốc tế
Khi bàn về các cơ chế để
truy tố và cưỡng ép xử phạt các doanh nghiệp trong luật quốc tế, giới chuyên
gia hay dùng cụm từ “accountability mechanism”, tức là các cơ chế
quy kết trách nhiệm.
Ở tầm quốc tế, không có
nhiều lựa chọn cơ chế quy kết trách nhiệm doanh nghiệp.
Tòa Hình sự Quốc tế cùng
Quy chế Rome là một lựa chọn. Tuy nhiên, lựa chọn này có nhiều hạn chế:
·
Tòa Hình sự Quốc tế chỉ
có quyền xét xử các cá nhân (individual) mà không có quyền xét xử các thực thể
pháp lý (legal entities), tức là các doanh nghiệp hay công ty,
·
Tòa không đủ “mạnh vì
gạo, bạo vì tiền” để có thể xử lý nhiều vụ việc nên họ thường phải tập
trung nguồn lực vào các đối tượng phạm tội trực tiếp thay vì gián tiếp, và
·
Năng lực điều tra truy tố
và cưỡng chế xử phạt của tòa là rất giới hạn bên ngoài khối 123 nước là thành
viên của Quy chế Rome.
Việc thiếu vắng các cơ chế
quy trách nhiệm dựa trên “luật cứng” (hard law) này dẫn đến việc phải phụ
thuộc vào các cơ chế quy trách nhiệm dựa trên “luật mềm” (soft law).
Trong khi “luật cứng”
đến từ các tòa án quốc tế thì “luật mềm” đến từ các tổ chức quốc tế. Các
tổ chức quốc tế này không phải là các cơ quan lập pháp được các nước công nhận
nên họ không thể “làm luật”. Họ cũng không phải tòa án để có thể “xử
luật”.
Tuy nhiên, trong thẩm quyền
tổ chức mình, họ có thể ban hành các nguyên tắc ứng xử (principles)
hay các hướng dẫn (guidelines) cho các nước là thành viên
trong tổ chức. Vì các nguyên tắc hay hướng dẫn này không có tính ràng buộc như
luật nhưng vẫn có khả năng thúc ép hành vi ứng xử, nên chúng được xem là “luật
mềm”.
Theo đó, các nước thành
viên này ít ra phải chịu áp lực từ các tổ chức quốc tế trong việc đảm bảo các
doanh nghiệp, doanh nhân của nước họ không trắng trợn đi ngược lại các “luật
mềm” đó.
Có một vài bộ nguyên tắc
và hướng dẫn ứng xử quốc tế có thể được vận dụng để quy kết trách nhiệm doanh
nghiệp:
·
Các Nguyên tắc Hướng dẫn về Kinh doanh và Quyền con người (United
Nations Guiding Principles on Business and Human Rights) được Hội đồng Nhân quyền
của Liên Hợp Quốc thông qua năm 2011;
·
Tuyên bố Ba bên về các Nguyên tắc liên quan đến các Doanh nghiệp
Đa quốc gia và Chính sách xã hội của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO);
·
Các Nguyên
tắc Chỉ đạo đối với Công ty Đa Quốc gia của Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế (OECD).
Các bộ nguyên tắc và hướng
dẫn này có thể cung cấp một cơ chế để các tổ chức quốc tế và các quốc gia thành
viên điều tra các hành vi vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp. Tuy vậy,
chúng không đủ mạnh để có thể truy tố và cưỡng ép xử phạt trực tiếp các doanh
nghiệp.
Các cơ chế quy kết
trách nhiệm của các doanh nghiệp theo luật địa phương
Trái với các cơ chế “ao
làng” ở trên, các cơ chế “ao ta” tuy vòng vèo và bị giới hạn vào phạm
vi lãnh thổ một địa phương nhất định nhưng vẫn là những lựa chọn khả dĩ và khá
hiệu quả để thúc ép doanh nghiệp.
Thay vì chỉ thúc ép chung
chung, hoàn toàn có thể ép một doanh nghiệp phải ngừng một hành vi phạm pháp, nếu
hành vi phạm pháp đó gây ra hậu quả tài chính nghiêm trọng cho họ.
Các cơ chế quy kết trách
nhiệm sau đây có thể giúp “đánh vào túi tiền” các doanh nghiệp:
Truy tố hình sự
Hoàn toàn có thể dựa vào
luật hình sự của quốc gia nơi một doanh nghiệp đặt tổng hành dinh để quy kết
trách nhiệm của doanh nghiệp đó.
Tuy nhiên, lựa chọn này
có các trở ngại lớn:
·
Luật hình sự quốc gia sở tại có
công nhận trách nhiệm hình sự của công ty hay doanh nghiệp không? Không phải quốc gia nào cũng làm điều đó. Ví
dụ như luật Đức hiện nay không quy kết trách nhiệm hình sự cho doanh nghiệp,
nhưng đang có dấu hiệu sẽ có thay đổi luật trong tương lai.
·
Luật hình sự quốc gia sở tại có
xử phạt các hành vi phạm pháp bên ngoài lãnh thổ quốc gia sở tại? Đây là câu hỏi liên quan đến quyền xét xử
ngoại quốc (extraterritoriality).
Kiện dân sự
Trong một số trường hợp cụ
thể, các đơn kiện dân sự có thể được tận dụng:
·
Kiện dựa vào định chế Tort về
thiệt hại dân sự ngoài hợp đồng
Định chế Tort là một mảng
luật thường hay có ở các nước theo thông luật (common law) trên thế giới như
Anh hay Mỹ, và ở một vài nước theo dân luật (civil law) như Đức. Mảng này liên
quan đến các cáo buộc thiệt hại dân sự về quyền và tài sản khi mà các thiệt hại
này không nằm trong phạm vi hợp đồng.
Trong Tort, bên đi kiện sẽ
phải chứng minh rằng một doanh nghiệp đã cố tình, hay do sơ sẩy nghiêm trọng,
gây ra thiệt hại đến quyền và tài sản của bên đi kiện như thế nào.
Cũng giống như với phương
án truy tố hình sự, phương án kiện bằng Tort cũng phải giải quyết các khúc mắc pháp lý lớn về mức độ trách nhiệm dân sự
của doanh nghiệp, và khả năng quy kết trách nhiệm dân sự nếu các hành vi gây
thiệt hại diễn ra ở nước khác.
·
Kiện dựa vào luật bảo vệ người
tiêu dùng
Theo một cách khá vòng vèo, một người tiêu dùng tại nước sở tại của một
doanh nghiệp cũng có thể quy kết trách nhiệm cho doanh nghiệp bằng cách cáo buộc
rằng doanh nghiệp đó đang… quảng cáo dối trá (false advertisement).
Một doanh nghiệp đa quốc
gia hoàn toàn có thể tự làm truyền thông ở nước sở tại để xây dựng cho họ một
hình ảnh thân thiện, luôn tôn trọng luật pháp và nhân quyền ở khắp mọi nơi trên
thế giới. Nếu các chiêu trò đó thực ra là… rởm và chỉ nhằm che đậy các hành vi
phạm pháp ở nước ngoài, một người tiêu dùng hoàn toàn có thể dùng luật bảo vệ
người tiêu dùng để ít ra là buộc doanh nghiệp đó phải bẽ mặt và ngừng làm truyền
thông “bẩn” ở nước sở tại.
No comments:
Post a Comment