Bức
tranh 2020 qua các con chữ
Y Chan - Luật
Khoa
25/12/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/12/buc-tranh-2020-qua-cac-con-chu/
Cách đây vài ngày, độc giả
trên trang Public Address của New Zealand đã bình chọn “doomscrolling”
là từ khóa nổi bật nhất của năm 2020.
Từ này là kết hợp giữa
“doom” (sự bất hạnh, có thể dùng như tận thế) và “scroll” (cuộn, ở đây mô tả
thao tác dùng ngón tay lướt điện thoại). “Doomscrolling” chỉ hành động cầm điện
thoại không ngừng cuộn màn hình để đọc những tin tức thảm họa, tiêu cực. Dù biết
là chỉ toàn tin xấu, người ta vẫn bị ám ảnh phải theo dõi cập nhật nó liên tục.
Những độc giả của trang từ
điển nổi tiếng Dictionary.com thì bình chọn “unprecedented”
là từ khóa của năm. Nó được ghép từ tiền tố “un-” (không) và danh từ
“precendent” (tiền lệ, hay việc đã từng xảy ra). “Unprecedented” vì thế nghĩa
là chưa từng có tiền lệ, hay chưa bao giờ thấy. Năm 2020 đối với họ là năm trải
đầy các biến cố chưa bao giờ thấy trước đây.
Trước đó, những người điều
hành trang từ điển Dictionary.com đã chọn “pandemic”
là từ khóa của năm. Đó cũng là kết quả lựa chọn của Merriam-Webster, nhà xuất bản
từ điển có gần 200 năm tuổi. “Pandemic” dùng để chỉ các loại dịch bệnh lây lan
trên diện rộng, giữa các quốc gia và châu lục, ảnh hưởng một bộ phận đáng kể của
dân số.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/4000..jpg
Nhiều người New
Zealand chọn “doomscrolling” (dán mắt theo dõi tin tức tiêu cực) là từ khóa của
năm 2020. Ảnh: Alamy Stock Photo.
Một nhà xuất bản từ điển
khác là Colins Dictionary chọn “lockdown”
(phong tỏa) là từ đại diện của năm. Họ lý giải từ này “diễn tả trọn vẹn trải
nghiệm của hàng tỷ người trên thế giới trong năm qua”.
Trang từ điển Lexico năm
nay lần đầu tham gia cuộc chơi, và lựa chọn của họ là “quarantine”
(cách ly), một từ mà “mới hồi đầu năm còn là một thuật ngữ xa lạ, chỉ nghe tới
trong phim, giờ đây đã trở thành một phần trong ngôn ngữ đời sống hàng ngày.”
Các trang từ điển bình chọn
những từ khóa dựa trên mức độ truy cập tăng vọt so với năm trước đó, từ hàng
trăm đến hàng ngàn lần.
Có quá nhiều ứng
viên
Nhà xuất bản của Oxford
Dictionary, từ điển có lẽ là quen thuộc nhất với người Việt Nam, cũng ghi nhận
lượng truy cập tăng vọt cho các từ đề cập ở trên. Nhưng đồng thời họ cũng ghi
nhận hàng chục từ khóa khác mà mức độ sử dụng nhiều
đến mức “có thể đánh bại bất kỳ từ khóa nào của những năm trước đó”.
Vì thế, lần đầu tiên trong lịch sử, Oxford không bình chọn một từ đại diện của
năm, mà đưa ra hàng loạt từ cùng lúc. Đó là một chuyện “unprecedented”,
vô tiền khoáng hậu, như những người phụ trách công việc theo dõi bình chọn này
của Oxford nhận định (có lẽ họ cũng đã bình chọn cho từ này trên trang
Dictionary.com ở trên).
Thay vì chọn một từ khóa,
Oxford chia ra các từ theo chủ đề khác nhau, đại diện cho những sự kiện nổi bật
của năm.
Sự kiện đáng chú ý nhất tất
nhiên là dịch bệnh Covid-19, cùng với nó là hàng loạt từ bỗng dưng trở thành cửa
miệng của nhiều người. “Covid-19” và “coronavirus” được nhắc đến
hàng ngày. “Lockdown” (phong tỏa), “facemasks” (khẩu
trang), PPE (personal protective equipment – thiết bị bảo vệ
cá nhân), “frontliners” (những người ở tuyến đầu chống dịch) trở nên
quen thuộc.
Các từ được sử dụng phổ
biến còn phản ánh những mâu thuẫn xã hội, như khi “mask up” (đeo khẩu
trang vào) được nhắc đến nhiều, “anti-mask” (chống lại việc đeo khẩu
trang) cũng lập tức nổi lên.
Sự kiện đáng chú ý khác
là làm việc và học tập từ xa qua mạng. Từ khóa “remote” (từ xa) nghiễm
nhiên được nhắc đến mọi nơi. Những từ như “mute” (im lặng) và “unmute”
(mở tiếng) bống chốc cũng thịnh hành, khi người ta loay hoay làm quen với các
phần mềm làm việc trực tuyến, tìm cách bật và tắt âm thanh trong các cuộc họp.
Không chỉ có những từ sẵn
có, từ chế cũng lên ngôi. “Workcation”, ghép từ “work” (làm việc) và “vacation”
(nghỉ phép), ý chỉ những ngày vừa nghỉ phép vừa làm việc, nhắc nhở về một năm
không có ngày nghỉ. Trong khi đó, “staycation”, từ ghép của “stay” (ở
nhà) và “vacation”, mang nghĩa đi du lịch nghỉ mát loanh quanh trong nước hay ở
nhà, lại nhắc nhớ về một năm bị chôn chân bó buộc của hàng triệu người.
Năm 2020 không thiếu các
biến động về chính trị. Ở các nước phương Tây, “Black Lives Matter”
(sinh mạng của người da màu cũng đáng quý) là cụm từ nóng hổi, khuấy đảo các cuộc
thảo luận chính trị và thổi bùng những phong trào xã hội. “QAnon” cũng
trở thành cái tên quen thuộc với những ai hâm mộ và chia sẻ cuồng nhiệt các
thuyết âm mưu giật gân.
Trong một năm mà vấn đề
môi trường hầu như lép vế so với các diễn biến căng thẳng về dịch bệnh và chính
trị, vẫn có một từ khóa mới đáng chú ý xuất hiện. “Anthropause”, ghép từ
“anthro” (con người) và “pause” (tạm ngưng), được tạo ra để chỉ hiện tượng các
hoạt động du lịch và sản xuất toàn cầu bị giới hạn và ngưng lại dưới tác động của
đại dịch. Một hệ quả tích cực từ đó là suy giảm ô nhiễm từ các hoạt động của
con người, cả về khí thải, âm thanh, lẫn ánh sáng.
Bức tranh mini của
người Thụy Sĩ
Giống như từ điển Oxford,
những người Thụy Sĩ cũng không chọn ra được một từ khóa riêng lẻ nào để mô tả về
năm qua. Mỗi vùng của Thụy Sĩ, với người dân nói các thứ tiếng khác nhau,
có suy nghĩ riêng về bức tranh trong năm 2020 này.
Người Thụy Sĩ ở những
vùng khác nhau chọn các từ khóa khác nhau để mô tả năm 2020. Ảnh: ZHAW
Linguistik.
Người ở vùng nói tiếng Ý
chọn “pandemia”, giống như “pandemic” (dịch bệnh) của tiếng Anh, làm từ
của năm. Điều này dễ hiểu khi ca bệnh Covid-19 đầu tiên ở Thụy Sĩ xuất hiện tại
khu vực này. Người ở vùng nói tiếng Romansh, một ngôn ngữ gốc Latin gần với tiếng
Ý, thì chọn “mascrina”, nghĩa giống với “mask” (khẩu trang), làm từ
khóa. Các lựa chọn này khá tương đồng với thế giới. Nhưng dân cư ở hai vùng này
thuộc nhóm thiểu số tại Thụy Sĩ.
Ở nhóm dân cư lớn nhất,
những người nói tiếng Đức, từ khóa là “systemrelevant”, tương đương với
“systematically relevant” trong tiếng Anh. Nghĩa đen chỉ những thứ liên quan đến
hệ thống, có thể hiểu đơn giản là “trọng yếu”. Nó trở thành từ được thảo luận
nhiều khi chính quyền áp dụng các biện pháp phong tỏa kinh tế nhằm hạn chế lây
lan dịch bệnh. Chỉ những ngành nghề được xem là “trọng yếu” mới được phép tiếp
tục hoạt động. Hệ quả là mọi người bắt đầu suy nghĩ và đặt ra câu hỏi, “chẳng
phải tất cả chúng ta đều trọng yếu, đều là một phần của hệ thống đó sao?”.
Tại nhóm dân cư lớn thứ
hai của Thụy Sĩ, khu vực người dân nói tiếng Pháp, từ khóa được lựa chọn lại là
“coronagraben”. Nó là sáng tạo ăn theo của một từ xuất hiện từ lâu, “röstigraben”,
được ghép từ chữ “rösti”, món bánh khoai tây truyền thống của người dân vùng
nói tiếng Đức ở Thụy Sĩ, và “graben”, chỉ hố ngăn cách. “Röstigraben” xưa nay
được dùng để mô tả sự khác biệt về tập quán, văn hóa lẫn tư duy chính trị giữa
hai vùng lớn nhất của Thụy Sĩ, khu vực người dân nói tiếng Đức và tiếng
Pháp.
Trong năm của dịch bệnh,
“coronagraben”, ghép từ virus “corona” và “graben”, được chế ra để tiếp tục phản
ánh sự khác biệt giữa hai vùng này. Trong khi vùng nói tiếng Đức ít chịu ảnh hưởng
của dịch bệnh, thì khu vực nói tiếng Pháp lại phải chống đỡ vất vả với nhiều ca
lây nhiễm.
Nhưng đó là thời điểm ban
đầu. Giờ đây, khi các vùng (canton) nói tiếng Pháp đã chứng kiến tốc độ lây lan
của dịch bệnh bị khống chế nhờ vào các biện pháp phong tỏa gắt gao, khu vực nói
tiếng Đức lại bắt đầu phải đối phó với các ca
bệnh tăng cao do buông lỏng kiểm soát.
Có lẽ “coronagraben” vẫn
sẽ tiếp tục được nhắc tới, hoặc một từ “-graben” nào đó sẽ được người Thụy Sĩ
chế ra để phản ánh sự khác biệt giữa những người sống trong cùng một đất nước
này.
Đó như một bức tranh
mini, đồng điệu với bức tranh chung của nhân loại. Tuy khác biệt nhưng cùng
chung một số phận, và tuy chung một con thuyền, nhưng vẫn chèo về những hướng
khác nhau.
No comments:
Post a Comment