Trương Nhân Tuấn
08/05/2020
Báo
Pháp luật “phản pháo” một loạt (đến lúc này) 5 bài phỏng vấn để giải thích về ý
nghĩa công hàm ngày 14-9-1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Bài 1, bài 2, bài 3, bài 4 và bài 5.
Phải
chi các bài viết này thay thế được công hàm mà VN sẽ phải gởi lên Tổng thư ký
LHQ trong những ngày sắp tới thì hay quá!
Theo
tôi, ý kiến của các học giả VN qua các bài báo đã dẫn, chưa chắc đã thuyết phục
được dư luận trong nước, huống chi (các ý kiến này) được sử dụng như là lời “phản
biện” chính thức của VN trước các diễn đàn quốc tế, như khẩn cấp gởi lên tổng
thư ký LHQ để phản biện các động thái mới đây của TQ. Công việc càng thêm khó nếu
các lập luận này được nhắc trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, hay trước một Trọng
tài quốc tế.
Tôi
sẽ lần lượt đưa các quan điểm của tôi về luật quốc tế, chung quanh ý nghĩa của
Quyết định ngày 4 tháng 9 năm 1958 của TQ về “hải phận 12 hải lý” và chủ quyền
lãnh thổ của TQ ở Tây Sa và Nam Sa. Sau đó tôi sẽ nhắc lại những điều tôi đã
công bố, như về hiệu lực công hàm 14-9-1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Về hiệu
lực pháp lý của thái độ “im lặng” qua hiệu ứng “đồng thuận – acquiescement”. Về
sự thành hình “quốc gia Việt Nam” hiện đại theo công pháp quốc tế (hiệp định
Genève 1954 và hiệp định Paris 1973). Về “tình trạng pháp lý – statut
juridique” các quốc gia bị phân chia như Đông và Tây Đức, Nam và Bắc Hàn, TQ lục
địa và Đài loan, Đông và Tây Hồi (Pakistan và Bangladesh)… Về “tư cách pháp
nhân quốc tế – personnalité internationale” của hai chế độ VNCH và VNDCCH…
***
Lập
luận của TQ mọi người đều biết qua các công hàm mới đây gởi lên Ủy ban Ranh giới
Thềm lục địa, thông qua Tổng Thư Ký LHQ. Trung Quốc nại “estoppel”, lên các
hành vi và thái độ của VNDCCH đã thể hiện một cách liên tục, “minh thị” và “ám
thị”, từ khi “lập quốc” ngày 2 tháng 9 năm 1945 đến các năm trong thập niên
1970 thế kỷ trước.
Theo
TQ, VNDCCH đã nhìn nhận chủ quyền Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc. VN bây giờ
không thể “nói ngược”.
Lập
luận của TQ, VNDCCH đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS, qua: 1/ công
hàm 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, 2/ các ý kiến (có thể xem là tuyên bố đơn
phương) của các lãnh đạo cao cấp VN như Ung Văn Khiêm. 3/ Các sách giáo khoa,
các bản đồ do bộ quốc phòng VN xuất bản, ghi nhận Tây Sa và Nam Sa thuộc TQ, 4/
các bài báo trên Nhân dân nhìn nhận “hải phận” 100 hải lý chung quanh Hoàng Sa
thuộc TQ.
Đến
nay VN và dàn học giả “cố thủ” trong lập luận VN chỉ nhìn nhận hải phận 12 hải
lý trên các vùng lãnh thổ của TQ mà thôi.
Thật
là đúng như vậy. Nếu xét câu chữ thì Công hàm PVĐ chỉ: “Ghi nhận và tán
thành quyết định về hải phận của Trung Quốc“, đồng thời “Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan
Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc“.
Công
hàm PVĐ không có chữ nào nhắc đến HS và TS.
Trong
trường hợp này ta có thể xem như VNDCCH đã giữ thái độ “im lặng” trước quyết định
về hải phận của TQ ở hai vùng lãnh thổ Tây Sa và Nam Sa.
Cách
đây khoảng 10 năm, tôi có viết bài “Nếu công hàm PVĐ không hiện hữu”. Theo đó đặt
giả thuyết rằng VN giữ thái độ “im lặng” trước hành vi “khẳng định chủ quyền” của
TQ ở Tây Sa (tức Hoàng Sa của VN) và Nam Sa (tức Trường Sa của VN). Theo tôi,
trường hợp này VN đã bị vướng nguyên tắc “đồng thuận – acquiescement”.
Khiếm
khuyết trong các lập luận của dàn học giả trả lời phỏng vấn trên báo Pháp luật
là họ “quên”, không ai nói tới Tuyên bố của TQ có ý nghĩa gì trước luật pháp quốc
tế !!??
Theo
Công pháp quốc tế, Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của TQ là một “quyết định –
decision” của chính phủ Bắc kinh (gọi là Trung Quốc để phân biệt với phe Cộng
hòa Trung Hoa ở Đài loan) về lãnh thổ và hải phận của quốc gia Cộng hòa Nhân
dân Trung quốc.
Tập
quán quốc tế, trong trường hợp này, các quốc gia khác bắt buộc phải lên tiếng để
thể hiện “thái độ” của quốc gia trước “quyết định” này (của TQ). (Nếu các quốc
gia này thấy có liên quan đến các quyết định của TQ).
Cách
thức thể hiện “thái độ của quốc gia” có thể bằng “lời nói” hay bằng công văn. Nội
dung có thể là “đồng ý – acceptation” hay “reconnaissance – nhìn nhận”, hoặc nếu
không đồng ý thì “protestation – phản đối”.
VNDCCH
đã tỏ thái độ “nhìn nhận” và “tán thành” về “quyết định” của TQ.
Câu
hỏi đặt ra là, VN và dàn học giả có thể “tán thành” quyết định về hải phận của
TQ trên mọi vùng lãnh thổ của TQ, nhưng lại loại trừ HS và TS, vì lý do công
hàm 1958 của PVĐ không nhắc tới HS và TS hay không?
Đặt
thí dụ, trong một hợp đồng làm ăn, một bên A viết một loạt các điều kiện, đánh
số từ 1 tới 10. Bên B rút viết ký tên “tán thành quyết định ấy của bên A”.
50
năm sau, bên B được hưởng từ bên A viện trợ súng ống, đạn dược, lương thực…
tính ra tương đương 20 tỉ đô la. Thêm vào đó 300 ngàn quân. Bên B nhờ vậy lập
nên “chiến thắng lịch sử” là “đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào”.
Đến
năm 1979 khi “cơm không lành canh không ngọt” giữa hai chính phủ “vừa là đồng
chí vừa là anh em”. VN đổi thái độ, chỉ “tán thành” hải phận 12 hải lý.
Kiểu
bên B nói ngược là “tao chỉ nhìn nhận từ 1 tới 9 thôi. Điều 10 tao không
công nhân“.
Theo
tôi, lập luận của VN sẽ không được ai chia sẻ. Ý kiến của tôi, đã viết từ lâu,
là phải “hóa giải” hiệu lực công hàm 1958, triệt để và toàn diện. Hóa giải thế
nào thì tôi đã có bài viết sơ lược trên BBC tuần trước.
Bởi
vì “nhìn nhận và tán thành” ở 12 hải lý là đã nhìn nhận hiệu lực của công hàm
PVĐ rồi.
(Còn
nữa)
---------------------------------------------
Trương Nhân Tuấn
10/05/2020
Trong
số các câu hỏi mà phóng viên báo Pháp luật đặt ra cho các học giả trong loạt
bài 5 kỳ báo đã đăng. Theo tôi câu sau đây là “hay” nhứt, đặt ra cho PGS TS Vũ
Thanh Ca. Nguyên văn như sau:
“Dù
CHPVĐ không thừa nhận chủ quyền của TQ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa nhưng lại không phản đối tuyên bố chủ quyền của TQ. Điều này có gây khó khăn
cho việc khẳng định quá trình thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không?”
Bài
viết hôm qua tôi có đề cập đến hiệu lực Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Nhắc lại
trong bài này để bổ túc vào câu hỏi dành cho TS Vũ Thanh Ca.
Công
hàm 14 tháng 9 năm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng không đơn thuần là một “văn
kiện ngoại giao đơn phương” thuần túy “chính trị” mà chính phủ VNDCCH công bố
nhằm thể hiện tình “đoàn kết” với TQ như PGS TS Vũ Thanh Ca đã trả lời trong
bài phỏng vấn.
Nhắc
lại là Tuyên bố của TQ ngày 4 tháng 9 năm 1958, nói theo ngôn từ “pháp lý”, là
văn kiện ngoại giao có hình thức một “Quyết định – Décision”, nội dung liên
quan đến hải phận 12 hải lý trên các vùng lãnh thổ của TQ. Quyết định này phát
sinh sau khi các Hội nghị Quốc tế về biển năm 1956 và các Công ước về Luật Biển
được các quốc gia ký kết năm 1958. Nội dung Tuyên bố ghi rõ, một cách “minh bạch”,
các yêu sách của TQ.
Trong
trường hợp các yêu sách của TQ không vi phạm các nguyên tắc luật lệ, Tuyên bố
có thể có hiệu lực ràng buộc. Tập quán quốc tế đòi hỏi các quốc gia (hay vùng
lãnh thổ) phải tỏ “thái độ” cụ thể, “đồng ý ủng hộ” hay “không đồng ý phản đối”
trước “quyết định” của TQ.
Quyết
định về lãnh thổ và hải phận 12 hải lý của TQ có liên quan đến VN. Hai quần đảo
Tây Sa và Nam Sa ghi trong bản Tuyên bố của TQ vốn là Hoàng Sa và Trường Sa của
VN.
Lần
đầu tiên TQ lên tiếng tranh chấp với nhà nước bảo hộ Pháp, tại Hoàng Sa là năm
1909. Ở Trường Sa, TQ lên tiếng tranh chấp sau khi Pháp tuyên bố chủ quyền và
sáp nhập vào VN đầu thập niên 1930. Nhà nước bảo hộ Pháp hai lần đề nghị TQ giải
quyết tranh chấp HS và TS bằng một trọng tài quốc tế, TQ từ khước cả hai lần.
Công
hàm 14 tháng 9 năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là một văn kiện “cụ thể”, thể hiện
“thái độ” của chính phủ VNDCCH, trả lời TQ về “quyết định về lãnh thổ và hải phận”
của nước này ngày 4 tháng chín năm 1958.
(Các
học giả, sử gia, luật gia VN vì vậy không thể vịn vào lý do “không biết” lịch sử,
không biêt luật lệ… để biện hộ cho một thái độ làm tổn hại cho sự “toàn vẹn
lãnh thổ” của đất nước.)
Công
hàm của TQ ngày 17 tháng 4 năm 2020 gởi TTK LHQ để phản biện các ý kiến của VN
qua các công hàm gởi TTK LHQ hôm 30 tháng ba và 17 tháng tư 2020. TQ cho rằng,
qua công hàm 1958 của PVĐ, VN đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại Tây sa và Nam
Sa. Bây giờ VN không thể “nói ngược”, là chỉ nhìn nhận “hải phận 12 hải lý” và
không nhìn nhận chủ quyền Tây sa và Nam sa. TQ cho rằng VN đã bị “estopped”, tức
bị “mất tố quyền”, theo nguyên tắc “không được nói ngược – Estoppel”.
Kỳ
trước tôi có nói về nguyên tắc “đồng thuận – acquiescement”.
Theo
tập quán quốc tế, trước một vấn đề đòi hỏi quốc gia phải có thái độ, ở đây là
tuyên bố chủ quyền của TQ ở chủ quyền HS và TS. Sự “im lặng” của VNDCCH đồng
nghĩa với hành vi “đồng thuận ám thị – acquescement implicite”. Hành vi
“đồng thuận” trở nên rõ rệt theo thời gian, qua các ấn phẩm mà VNDCCH xuất bản
như bản đồ, sách vở, báo chí… nội dung ghi nhận HS và TS thuộc TQ. Sự “đồng thuận”
trở nên cụ thể, có hiệu lực pháp lý ràng buộc.
Giả
sử VN và TQ “đụng độ” trước một tòa án bất kỳ, để giải quyết chồng lấn hải phận
và thềm lục địa, hay để giải quyết tranh chấp chủ quyền. Nếu Tòa ghi nhận thái
độ “đồng thuận – acquiescement” của VN về chủ quyền của TQ ở HS và TS. Phiên
tòa có thể tiếp tục và Tòa có thể xét tới các “trường hợp giảm khinh”. Tư cách
pháp nhân quốc tế (quốc gia) của VNDCCH chưa rõ rệt. Vì vậy nội dung tuyên bố
14 tháng chín 1958 của PVĐ không thể diễn giải theo công pháp quốc tế. Điều này
tôi đã viết trong bài ở
đây.
Nhưng
nếu Tòa ghi nhận ý kiến của TQ là VN đã bị “Estopped – mất tố quyền”. Điều này
có thể xảy ra, vì TQ có đủ bằng chứng cho thấy cuộc hai cuộc kháng chiến chống
Pháp 1945-1954 và chống Mỹ 1954-1975, TQ đã giúp cho VNDCCH về mọi mặt, vũ khí
đạn dược, quân trang quân dụng, xe cộ máy móc, tài chánh… tương đương 20 tỉ đô
la (trị giá năm 1980 thì phải) và 300 ngàn quân.
Tức
là TQ đã “tin tưởng” vào thái độ VNDCCH “tán thành tuyên bố chủ quyền của TQ tại
HS và TS” qua công hàm PVĐ. VNDCCH nhờ đó đã “hưởng lợi” lớn lao, chiếm được
VNCH, nhờ sự trợ giúp từ TQ. Các yếu tố cấu thành “Estoppel”. Nếu VN “nói ngược”,
gây thiệt hại (về lãnh thổ, hải phận) cho TQ. VN sẽ bị “mất tố quyền”. Nếu tòa
bị thuyết phục bởi các bằng chứng của TQ. Tức khắc phiên tòa có thể “chấm dứt”,
đơn kiện của VN sẽ bị bác, với sự bẽ bàng cho VN.
Trở
lại câu hỏi của phóng viên dẫn trên. Cái “hay” trong câu hỏi, và theo tôi là
quan trọng hơn cả, là việc “thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam tại HS và
TS”.
Đúng
vậy, chính phủ VNDCCH đã thể hiện “thẩm quyền quốc gia về lãnh thổ” ở HS và TS
hồi nào ? qua các hành vi nào ?
PGS
TS Vũ Thanh Ca trả lời nguyên văn như sau:
Dẫn
(tôi đánh số vô từng đoạn cho dễ theo dõi):
(1)“
Ngày 2-9-1945, nước VNDCCH được thành lập, là một nhà nước độc lập, toàn vẹn
lãnh thổ và tuyên bố chủ quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam (bao gồm Trường Sa,
Hoàng Sa).
(2)
Ngày 6-3-1946, Chính phủ VNDCCH ký với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946.
Theo đó, VNDCCH là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương, nằm trong khối
Liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, sau đó Pháp chủ trương không thực hiện một số thỏa
thuận trong Hiệp định sơ bộ và Tạm ước Việt Pháp, trái lại còn cố ý gây chiến để
tái xác lập chế độ thực dân trên lãnh thổ Việt Nam. Chiến tranh giữa hai bên xảy
ra vào cuối năm 1946 và kéo dài tới giữa năm 1954.
(3)
Căn cứ vào Hiệp định sơ bộ, vì VNDCCH nằm trong khối Liên hiệp Pháp, trong thời
gian từ cuối năm 1946 tới đầu 1947, Pháp đã thực thi quyền đại diện để bảo vệ
chủ quyền của VNDCCH tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
(4)
Từ cuối năm 1946, Pháp đã chủ trương thành lập một chính phủ khác trên đất Việt
Nam để đối trọng VNDCCH. Ngày 5-6-1948, Hiệp ước vịnh Hạ Long được ký kết và
ngày 8-3-1949, với sự ký kết Hiệp định Élysée, Quốc gia Việt Nam (QGVN), một quốc
gia độc lập thuộc Liên hiệp Pháp, được thành lập. Đến đầu năm 1950 đã có 35 quốc
gia công nhận QGVN.
(5)
Pháp đã chính thức trao quyền quản lý toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, trong đó có
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho QGVN. Tháng 4-1949, hoàng thân Nguyễn
Phúc Bửu Lộc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ QGVN, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của
Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 10-1950, việc quản lý Hoàng Sa và
Trường Sa được Pháp chính thức bàn giao cho QGVN.
(6)
Năm 1949, Pháp đã gửi đơn xin đăng ký các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Tổ chức Khí tượng Thế giới và đã được chấp
nhận. Các trạm khí tượng này là trạm Phú Lâm với số hiệu 48859; trạm Hoàng Sa với
số hiệu 48860; trạm Ba Bình với số hiệu 48419.”
Hết
dẫn.
TS
Vũ Thanh Ca đã không trả lời được câu hỏi, tuy đơn giản: Chính phủ VNDCCH đã “thực thi chủ quyền liên tục tại HS và TS” như thế
nào ?
Không
thể trả lời vì chuyện này không hiện hữu.
Trong suốt lịch sử thành hình VNDCCH
ngày 2 tháng chín năm 1945, cho đến năm 1976 thống nhứt đất nước dưới tên
CHXHCNVN, chưa bao giờ chính phủ VNDCCH thể hiện một hành vi, một thái độ bất kỳ
thể hiện sự quan tâm của “nhà nước” này đối với hai vùng lãnh thổ HS và TS.
Các
bản Bạch thư của VN gởi LHQ về chủ quyền lãnh thổ HS và TS, qua nhiều lần hiệu
đính, nội dung hoàn toàn “cắt dán” nguyên văn bản bạch thư về chủ quyền HS và
TS của VNCH công bố sau biến cố Hoàng sa tháng giêng năm 1974.
Ngoài
công hàm 14 tháng chín năm 1958 của Phạm Văn Đồng “nhìn nhận” các yêu sách của
TQ, trong đó có chủ quyền của TQ ở HS và TS. VNDCCH cũng giữ thái độ “im lặng”
(là đồng thuận) trước việc TQ sử dụng vũ lực xâm lăng HS của VN ngày 17/19
tháng giêng 1974.
Tức là VNDCCH không hề có động thái nào
nhằm giúp “khẳng định” chủ quyền của VN trên hai vùng lãnh thổ HS và TS. Ngược
lại, chính phủ VNDCCH đã nhiều lần, thể hiện bằng các văn từ ngoại giao, hay bằng
các tài liệu sách giáo khoa, bản đồ, báo chí… nhìn nhận chủ quyền của TQ ở HS
và TS.
TS
Vũ Thanh Ca cố gắng giải thích việc VNDCCH “thực thi chủ quyền liên tục tại HS
và TS” bằng cách nại Hiệp định sơ bộ 1946 ký kết giữa ông Hồ và Pháp.
Thật
là tai hại chồng lên tai hại. Nội dung Hiệp định sơ bộ nói gì ?
Nói
là “VNDCCH là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương, nằm trong
khối Liên hiệp Pháp”.
Cụm
từ “quốc gia tự do” nguyên văn tiếng Pháp trong Hiệp định sơ bộ 1946 là “Etat
libre”.
“Etat”
ở đây phải hiểu là “tiểu bang” chớ không phải là “quốc gia”.
VNDCCH
chỉ là một “tiểu bang” thuộc “liên bang Đông dương” thuộc Pháp. Lãnh thổ “tiểu
bang” VNDCCH chỉ bao gồm Bắc kỳ và quyền ngoại giao tùy thuộc vào Pháp. Nam kỳ
(Cochinchine vẫn còn là nhượng địa của VN cho Pháp). Thẩm quyền của ông Hồ
trong chính phủ VNDCCH thực chất còn thấp hơn cả viên Toàn quyền Pháp. Bài viết
của tôi nhiều năm trước đã đăng ở đây, nói khá rõ về việc này.
Pháp
trở lại Đông dương, thâu hồi chủ quyền các vùng lãnh thổ ở đây, thông qua các
thỏa thuận với Anh (miền Nam dưới vĩ tuyến 16) và với tưởng Giới Thạch qua các
thỏa ước Trùng khánh tháng hai 1946, trao đổi quyền lợi kinh tế ở Hoa Nam lấy
lãnh thổ Bắc kỳ, quân Pháp thay thế quân Trung hoa (miền Bắc vĩ tuyến 16).
Dĩ
nhiên Pháp cũng thâu hồi HS và TS, vào các năm sau 1946, tuyên bố trước cộng đồng
thế giới việc cắm mốc dựng bia chủ quyền, sau đó sáp nhập vào lãnh thổ VN.
Hành
vi này của Pháp thể hiện việc tái khẳng định chủ quyền HS và TS. Các vùng lãnh
thổ này bị Nhật tước đoạt năm 1939 và sáp nhập vào lãnh thổ Đài loan. Sau khi
thua trận tháng 8 năm 1945, Nhật phải trao lại cho Đồng minh quyền quyết định về
chủ quyền tương lai của tất cả các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm trước Thế chiến.
Dĩ nhiên trong đó có VN và các đảo HS và TS.
Điều
này không hề chứng minh hành vi VNDCCH “thực thi chủ quyền liên tục tại HS và
TS”.
Trong
khi đó, cho đến trước khi thắng trận Điện Biên Phủ tháng năm 1954, thực thể
VNDCCH không hề được xem như là một “quốc gia”, trên phương diện “thực tế”,
cũng như được nhìn nhận có một “tư cách pháp nhân quốc tế”.
VNDCCH không phải là “quốc gia độc lập,
có chủ quyền” như ý kiến của TS Vũ Thanh Ca.
Theo
sử liệu chính thức, cuộc “cách mạng tháng tám” được khởi động từ 14-8-1945, sau
quyết định của đảng CS Đông Dương tại cuộc họp Tân Trào. Cuộc “cách mạng” chấm
dứt ngày 30 tháng 8 sau khi vua Bảo Đại thoái vị giao ấn kiếm cho đại diện CS.
Cũng theo sử liệu “chính thống”, cuộc cách mạng xảy ra “dưới sự lãnh đạo của đảng,
20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành lại chính quyền…”.
Trong
vòng có mấy ngày, từ sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, cho đến ngày 2 tháng
chín, mà “cách mạng tháng tám” đã “bài phong, đả thực” giành chính quyền
từ tay Nhật, kiểu “xoá bỏ chính quyền Nhà nước của thực dân và phong kiến,
lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước độc lập, dân chủ
thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển
của nước ta… »
Các
điều này hiển nhiên là “sử phịa”.
Thế
chiến thứ II tại Châu Á kết thúc sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng ngày 15 tháng
tám năm 1945. Chủ quyền của VN trong tay Nhật từ nay giao lại cho phe chiến thắng
là Đồng minh. Việc giải giới quân Nhật tại VN được qui định : Quân đội Anh quốc
phụ trách vùng phía nam vĩ tuyến 16 và quân đội Trung Hoa phụ trách phía bắc vĩ
tuyến 16.
Ngày
9 tháng chín năm 1945 quân của Trung Hoa do Tiêu Văn và Lư Hán dẫn đầu có mặt tại
Hà Nội. Tương tự, liên quân Anh-Pháp cũng có mặt ở miền Nam.
Làm gì có vụ lực lượng cách mạng
chạy đua giành chính quyền với quân đội Đồng Minh hay việc 20 triệu nhân dân ta
nhất tề vùng dậy giành lại chính quyền như các sử gia đã viết ?
Làm gì có vụ, như sử liệu
chính thống đã viết, “lực lượng cách mạng” đã “đánh” Nhật “giành chính quyền” ở
một số tỉnh thành (ngoài Bắc).
Trên
thực tế không có “đánh đấm” gì hết.
Ngày
15 tháng tám quân Nhật đã bỏ súng đầu hàng. Thẩm quyền của Nhật tại VN đã chuyển
sang lực lượng Đồng minh. Trong tay quân Nhật (ở VN) đâu còn cái (chính
quyền) nào để “cách mạng” cướp (hay giành) ?
Mặt
khác, khi Tiêu Văn và Lư Hán dẫn quân qua VN theo như qui định của phe thắng trận,
dọc đường lực lượng này tước “quyền hành” của “chính quyền cách mạng” và trao lại
cho phe thân Trung Hoa.
Cũng
không hề có vụ “bài phong” qua việc việc “lực lượng cách mạng” cướp chính quyền
từ tay Bảo Đại (ngày 30-8).
Quốc
gia mang tên là “Đế Quốc Việt Nam” do Bảo Đại lãnh đạo ra đời ngay sau khi Nhật
đảo chánh Pháp ngày 10 tháng 3 năm 1945. Vấn đề là, theo qui định của phía thắng
trận, tất cả những chính quyền do Nhật dựng lên (ở các vùng lãnh thổ chiếm
đóng) đều không được nhìn nhận.
Đế
quốc VN của Bảo Đại (cũng như Đế quốc Mãn Châu của Phổ Nghi) quyền hành của
chính quyền Bảo Đại là không có thật. Quân đội không có. Ngân sách không có.
Ngoại giao cũng không. Tất cả đều phải thông qua Nhật.
Vậy thì “lực lượng cách mạng” có thể
“cướp” cái gì ở “quốc gia” của ông Bảo Đại ? Người ta đâu thể cướp cái mà người khác không có ?
Còn
việc “20 triệu nhân dân ta nhất tề vùng dậy” cũng chỉ là sản phẩm của trí tưởng
tượng. Miền Bắc vừa thoát nạn đói vào tháng 5, với 2 triệu người chết. Ba tháng
sau người dân có thể nổi dậy để giành cái ăn. Nói 20 triệu người “nhất tề vùng
dậy” giành chính quyền trên tay Nhật là điều hoang đường, không thuyết phục được
ai hết.
Vậy
mà phịa sử kiểu lê văn tám đến nay vẫn còn truyền tụng, nhồi nhét vô đầu những
thế hệ học sinh VN.
Vì
vậy cái gọi là “nước VNDCCH được thành lập, là một nhà nước độc lập, có chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ…”, không hề suôn sẻ như ý kiến của TS Vũ Thanh
Ca.
Riêng
các đoạn (4), (5) và (6) nói về sự khai sinh của Quốc Gia Việt Nam theo Hiệp ước
Elysée 1948.
Có
rất nhiều điều để nói về Quốc Gia Việt Nam, như việc Quốc gia này tham dự Hội nghị San Francisco. Điều đầu tiên là quốc gia này
không có bất kỳ một liên quan nào đến “quốc gia” VNDCCH.
Quốc
gia gọi là VNDCCH thành lập ngày 2 tháng chín năm 1945 là một “nhà nước mới”, mở
ra “kỷ nguyên mới”, đoạn tuyệt với các chế độ phong kiến và thực dân, đúng như
nội dung bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội
dung Tuyên ngôn có đoạn:
Chúng
tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam,
tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà
Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước
Việt Nam.
Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Lê Duẩn :
«
Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là
một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân… Nó đã xoá bỏ chính quyền Nhà nước
của thực dân và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước độc
lập, dân chủ thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử phát triển của nước ta… »
Khi đã “đoạn tuyệt” với “phong kiến” và
“thoát ly hẵn” với thực dân để thành lập “nhà nước mới”, thì làm gì có “kế thừa”, làm gì có “liên tục quốc gia”?
Chỉ có Quốc gia Việt Nam và VNCH kế thừa
nhà nước bảo hộ Pháp,
được Pháp “trả độc lập” và chủ quyền ở Nam Kỳ, mới là phía VN “liên tục quản lý
về hành chánh, quốc phòng cũng như khai thác kinh tế” hai quần đảo HS và TS.
Tức
là các ý kiến của TS Vũ Thanh Ca thay vì chứng minh “quá trình thực thi chủ
quyền liên tục của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” lại
chứng minh ngược lại, VNDCCH “đoạn tuyệt” với HS và TS.
Trong
khi đó nhà nước CHXHCNVN hôm nay là nhà nước “tiếp nối” VNDCCH.
Các
học giả VN nếu vẫn giữ quan điểm “lịch sử lê văn tám”, tiếp tục nhặp nhằng sử dụng
VNCH như là một “thứ đồ chơi”, lúc cần thì ve vuốt để lấy bằng chứng đối chất với
TQ về chủ quyền ở HS và TS. Lúc không cần thì hạ bệ, sỉ nhục VNCH, xem thực thể
này là “ngụy”, là “tay sai”, là “giặc”…
Thái
độ đó là thái độ “bất lương”. Nếu sau này VN mất thêm đảo, mất biển… dĩ nhiên
trách nhiệm là của đảng CSVN. Nhưng học giả VN còn có trách nhiệm nhiều hơn.
“Thằng”
lịch sử không ai biết mặt nó là ai. Nhưng đích thị nó là thằng “ngàn năm bia miệng”,
không bỏ sót tên “học giả đỉnh cao” nào hết.
No comments:
Post a Comment