2/05/20
Tình thế đã thay đổi. Những người mà đất nước đòi hỏi,
những trí thức chính trị, đã xuất hiện và đội ngũ của họ đang gia tăng. Lớp người
mới này sẽ là những tác nhân của cuộc cách mạng loại bỏ chế độ độc tài cuối
cùng và mở ra kỷ nguyên dân chủ, Kỷ Nguyên Thứ Hai trong lịch sử dân tộc. Đất
nước Việt Nam sau đó sẽ động viên được mọi tiềm năng của mình và sẽ vươn lên mạnh
mẽ.
45 năm sau, một truyện thuyết cho tương lai
Chúng tôi quen nhau trên
mạng xã hội rồi trở thành thân. Vào ngày 30 tháng 4-1975, chúng tôi cùng lứa tuổi
nhưng ở hai địa vị khác nhau. Bạn tôi thuộc phe thắng với một tương lai huy
hoàng trước mắt, tôi thuộc phe thua và sắp bắt đầu những ngày rất đen tối. Vài
ngày trước, chúng tôi chuyện trò về đất nước nhân dịp kỷ niệm ngày lịch sử này.
Chúng tôi không đả động đến
chế độ Việt Nam Cộng Hòa vì đối với chúng tôi chế độ này đã thuộc hẳn vào quá
khứ. Sau một hồi trò chuyện trên nhiều chủ đề, chúng tôi kiểm điểm những nhân vật
có chút tiếng tăm hoặc uy tín. Điều mà chúng tôi đồng ý là thế hệ 1945, những
người đã trưởng thành vào thời điểm Cách Mạng Tháng 8, đã ra đi hết. Thế hệ
1975, những người vừa trưởng thành vào ngày 30 tháng 4-1975 còn lại lác đác
nhưng đã suy yếu lắm rồi nên vai trò kể như đã chấm dứt. Cả hai thế hệ đã ra đi
mà không để lại gì ngoài một vài cuốn hồi ký chứng tỏ Đảng cộng sản không có
chính nghĩa và mô tả Hồ Chí Minh và các lãnh tụ cộng sản là những người chẳng
ra gì, nhưng cũng không giải thích được nghịch lý tại sao những con người tầm
thường đó lại đã có thể áp đặt quyền lực của họ và khiến đất nước ta nghèo khổ,
tụt hậu và rã hàng như ngày nay.
Nghịch lý đó giải thích một
nghịch lý khác. 45 năm đã trôi qua từ ngày chế độ cộng sản được áp đặt trên cả
nước. Những người sinh ra vào thời điểm đó bây giờ đã có thể có cháu nội cháu
ngoại. Hai thế hệ đã trưởng thành. Nhưng tại sao chế độ cộng sản vẫn chưa gặp một
chống đối có tầm vóc nào dù đã có tội lớn, rất lớn, là gây ra một cuộc nội chiến
rất dài và đẫm máu và sau đó đã thất bại trong tất cả mọi địa hạt, trên tất cả
mọi phương diện, theo tất cả mọi tiêu chuẩn ?
Đất nước ngày nay
Một lần nữa cần nhận diện
thật chính xác chế độ này. Có những sự kiện nhỏ nhưng đủ để khẳng định một thực
trạng lớn. Cách đây sáu tháng, cuối tháng 10/2019, 39 thanh niên Việt Nam chết
ngạt trong một xe đông lạnh tại Anh trong một vụ nhập cảnh bất hợp pháp. Họ
không phải là những thanh niên Việt Nam thiếu may mắn nhất. Họ đã bỏ ra một số
tiền tương đương với tài sản của nhiều gia đình Việt Nam cho một cuộc phiêu lưu
rất hiểm nghèo mà nếu thành công chỉ cho phép họ rời bỏ đất nước Việt Nam để sống
cuộc đời của những "người rơm", nghĩa là những người
không có một giá trị gì, kể cả sự hiện hữu hợp pháp, tại một nước khác. Trong
khi chính quyền Anh, kể cả thủ tướng, tới nghiêng mình trước thi hài những người
xấu số, vì dầu sao họ cũng là người, thì những người cầm đầu chính quyền cộng sản
Việt Nam không hề bày tỏ một cảm xúc nào, báo chí nhà nước đưa hình ông bộ trưởng
công an tươi cười thuật lại bi kịch này như kể một chuyện vui. Họ không có tình
người, chưa nói tình đồng bào. Ông Nguyễn Phú Trọng thường khoe khoang : "đất
nước chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay".
Đất nước lộng lẫy đến nỗi thanh niên phải liều mạng bỏ đi.
Năm 2020 đã bắt đầu với vụ
Đồng Tâm. Bây giờ, sau bốn tháng bàn cãi sôi nổi trên một biến cố xẩy ra ngay tại
thủ đô làm cả nước xúc động, người ta đã biết được vài điều chắc chắn. Đêm
09/01 một lực lượng vũ trang hùng hậu hàng ngàn người tấn công vào một gia đình
nông dân ở thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội theo một kế hoạch đã
quyết định trước. Mục đích của cuộc tấn công này là để cướp đi các tài liệu do
ông Lê Đình Kình, chủ nhà, giữ chứng minh quyền sử dụng của xã Đồng Tâm trên một
khu đất mà chính quyền cộng sản muốn giao cho một công ty. Họ giết ông Lê Đình
Kình, 84 tuổi, đảng viên cộng sản và cựu chủ tịch xã Đồng Tâm, bằng nhiều phát
đạn rồi mổ bụng, có lẽ để xem ông già này có nuốt tài liệu nào không. Họ bắt đi
hơn 20 người thuộc gia đình và hàng xóm để tra tấn và buộc những người này phải
lên đài truyền hình (với những vết thương còn xưng húp trên mặt) nhận tội. Hoàn
toàn không có một sự chống cự nào từ phía dân chúng. Trong cuộc tấn công một
chiều này có ba sĩ quan công an chết vì tai nạn. Sau đó chính quyền ra thông
báo rằng lực lượng vũ trang đã được điều động tới để xây tường rào cho phi trường
Miếu Môn cách đó hơn 3 km nhưng bị một bọn quá khích tấn công khiến ba chiến sĩ
hy sinh. Thông báo này giờ đây đã bị phơi bày là hoàn toàn bịa đặt. Tổng bí thư
Đảng cộng sản và chủ tịch nước đã tặng huân chương cho ba "chiến sĩ hy
sinh" này. Thủ tướng cũng khen thưởng lực lượng tấn công. Chưa bao giờ dư
luận trong và ngoài nước, trong và ngoài bộ máy Đảng và Nhà nước, nhất trí như
trong vụ này. Mọi người đều thấy quá rõ ràng đây là một vụ cướp của giết người
dã man. Cách ứng xử của
hai nhân vật đứng đầu chế độ xác định một điều: Đảng cộng sản đã thực sự trở
thành một đảng cướp.
Hai biến cố nhỏ này nói
lên hiện tình của đất nước và chân dung của chế độ. Một thực trạng tủi nhục
khác mà nhân dân Việt Nam đã quá quen đến nỗi không còn nghĩ tới để phẫn nộ là
tất cả các cấp bậc từ hạ sĩ quan trở lên trong công an và quân đội và từ cấp
phó phòng trở lên trong bộ máy nhà nước, dù là hành chính, kinh tế, y tế, giáo
dục văn hóa, khoa học hay kỹ thuật đều chỉ dành riêng cho khoảng bốn triệu đảng
viên cộng sản chưa về hưu. Hơn 90 triệu người Việt Nam còn lại không được quyền
có vai trò và tiếng nói nào. Trên thực tế, chúng ta là một nước bị chiếm đóng và thống trị, không phải
bởi một cường quốc mà bởi một đảng cướp.
Đảng thống trị đó mạnh thế
nào ? Chính ông Nguyễn Phú Trọng, người cầm đầu Đảng và Nhà nước cộng sản,
trong một bài viết cách đây vài ngày, đánh giá các cán bộ cộng sản như là những
người "chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy
phiếu bầu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội.... Làm việc
gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia
đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự". Ông Trọng
quên một môn chạy thịnh hành từ mấy năm gần đây : chạy trốn ra nước ngoài. Ông
Trương Tấn Sang, chủ tịch nước trước ông Trọng, thì nói trong bộ máy Đảng và
Nhà nước có cả một bầy sâu. Một đảng như vậy thì làm sao có thể mạnh ? Có lý tưởng
chung nào để đoàn kết các đảng viên ? Sự tranh ăn và tranh quyền chỉ có thể khiến
họ căm thù nhau. Vậy tại sao nó vẫn có thể tiếp tục cầm quyền một cách không
phân chia sau gần một nửa thế kỷ đày đọa dân tộc và tàn phá đất nước ? Tình cảm
và ý chí dân tộc Việt Nam đâu ?
Chúng ta vẫn chưa ý
thức rằng thay thế một văn hóa đã nhào nặn ra chúng ta trong hàng ngàn năm đòi
hỏi một quyết tâm lớn mà chúng vẫn chưa có.
Vì gánh nặng di sản
Câu trả lời là vì chúng
ta vẫn chưa có một truyện thuyết mới thay thế cho truyện thuyết cũ đã nhàm
chán. Chúng ta vẫn chưa ý thức rằng thay thế một văn hóa đã nhào nặn ra chúng
ta trong hàng ngàn năm đòi hỏi một quyết tâm lớn mà chúng vẫn chưa có.
Lịch sử thế giới đã được
đánh dấu bằng nhiều đế quốc lớn. Ai Cập, Assyria, Babylon, Alexander, Maurya,
Hy Lạp, La Mã, Áo Hung, Ottoman, v.v. để chỉ kể một vài thí dụ. Và dĩ nhiên đế
quốc Trung Hoa. Mỗi đế quốc là một khối nhiều nước phục tùng một trung tâm,
trung tâm này nắm một quân lực áp đảo để áp đặt một nền văn minh và một số đặc
quyền kinh tế. Yếu tố quan trọng nhất của một đế quốc là nền văn minh, hay văn
hóa, của nó. Các nước chư hầu càng ở gần trung tâm bao nhiêu càng chịu ảnh hưởng
của văn hóa trung tâm bấy nhiêu.
Trong tất cả các đế quốc
này, Trung Hoa là đế quốc đặc biệt nhất. Nó là một trong những đế quốc lâu đời
nhất nhưng cũng là đế quốc duy nhất vẫn còn tồn tại dù có đổi tên triều đại và
người cầm quyền từ Tần, Hán đến Minh, Thanh và bây giờ là Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa. Lý do đã khiến đế quốc Trung Hoa tồn tại bền bỉ như vậy là văn hóa
Khổng giáo (hay đúng ra phải gọi là Nho giáo).
Trong tất cả các nền văn
minh đã là nền tảng cho các đế quốc, những người có học thức và kiến thức luôn
luôn là những người tự do nhất và được trọng dụng nhất. Văn minh Khổng giáo ngược
hẳn ; nó kiểm soát và tha hóa một cách tuyệt đối những người có học được gọi là
giai cấp sĩ. Họ được giáo dục để coi việc phục tùng một cách tuyệt đối và làm dụng
cụ vô điều kiện cho kẻ cầm quyền như một vinh dự và một đạo lý. Đạo đức của kẻ
sĩ chỉ giản dị là trung thành với vua, ngay cả một hôn quân bạo chúa ; sự thực
là những gì vua muốn. Tư Mã Thiên bị thiến vì đã muốn viết sử một cách trung thực,
các sử gia Trung Quốc, cũng như Việt Nam, sau đó không ghi chép những gì đã xẩy
ra mà chỉ viết những gì họ được phép viết. Lịch sử không có giá trị của những
kinh nghiệm cho phép rút ra những bài học mà chủ yếu là dụng cụ để đánh bóng kẻ
cầm quyền. Làm quan, nghĩa là làm tay sai cho kẻ cầm quyền, cũng là nghề duy nhất
của kẻ sĩ bởi vì họ đã được huấn luyện để coi mọi hoạt động khác -nông nghiệp,
công nghiệp cũng như thương nghiệp- là thấp kém. Điều quan trọng cần được lưu ý
trong đạo lý của kẻ sĩ là không có vấn để chống lại một chính quyền hung bạo,
cùng lắm nếu gặp một chính quyền quá gian ác họ chỉ có thể hoặc đi làm tay sai
cho một chính quyền khác hoặc rút về ở ẩn. Khổng Tử đã nói rất rõ điều này
trong sách Luận Ngữ.
Làm một cuộc cách mạng,
nghĩa là thay đổi cả người cầm quyền lẫn chế độ chính trị, đòi hỏi những
hiểu biết lớn nhưng những người có kiến thức nhất trong xã hội lại chỉ biết và
chỉ muốn làm tay sai cho chính quyền hiện có thì làm sao có thể có cách mạng ?
Chính vì thế mà đế quốc Trung Hoa tiếp tục tồn tại và thách thức thời gian,
nhưng cũng chính vì thế mà nó dậm chân tại chỗ trong năm ngàn năm. Mọi tiến bộ
xã hội đều bắt nguồn từ một tiến bộ về tư tưởng, nghĩa là một bước tiến tới gần
sự thực hơn nhờ một đột phá của trí tuệ trong khi quan sát lịch sử. Sự hoại loạn
của Khổng giáo là nó áp đặt các giá trị đạo đức sai, xuyên tạc lịch sử và bóp
nghẹt trí tuệ. Xã hội ổn định nhưng ổn định trong sự tê liệt. Chủ nghĩa
Mác–Lênin sau này cũng thế.
Không phải đế quốc Trung
Hoa đã kéo dài vì không bị xâm lược từ bên ngoài. Nó đã hai lần bị chinh phục,
bởi Mông Cổ và Mãn Thanh. Nhưng trong cả hai lần, kẻ chiến thắng đã thấy mô
hình xã hội Khổng giáo quá an toàn và tiện nghi cho mình nên đã chấp nhận nó và
hội nhập vào xã hội Trung Hoa. Cuối cùng chính họ bị Hán hóa và cuộc xâm lăng
chinh phục cũng không khác gì nhiều những thoán đoạt cung đình. Sự kiện đế quốc
Trung Hoa có thể bị chinh phục bởi những nước bán khai rất nhỏ như Mông Cổ và Mãn
Thanh chứng tỏ nó không mạnh, nó chỉ kéo dài với thời gian nhờ đã vô hiệu hóa
được thành phần duy nhất có thể thay đổi xã hội, giai cấp sĩ.
Cho tới kỷ nguyên dân chủ,
các chính quyền nói chung đều là chỉ là những bạo quyền. Các vua chúa về thực
chất chỉ là những kẻ cướp thành công. Được làm vua, thua làm giặc. Điều đặc biệt
của văn minh Khổng giáo là nó coi việc phục vụ các bạo quyền là một đạo lý,
nghĩa là đặt tội ác vào địa vị của đạo đức. Giai cấp sĩ là những kẻ nô lệ rất
đăc biệt, làm dụng cụ cho các bạo quyền để đàn áp và bóc lột quần chúng nghèo
khổ. Họ phục vụ những kẻ đáng lẽ phải chống và chống những người đáng lẽ phải bảo
vệ. Tuy vậy họ không thấy tội lỗi vì đạo lý của họ là như thế.
Con đường lập thân của kẻ
sĩ là con đường của một kẻ nô lệ cô đơn. Đầu đời họ sống đạm bạc, chỉ biết học
với ước vọng thi đậu để được làm quan, nghĩa là làm những nô lệ không điều kiện
cho các vua chúa, có thể bị nọc ra đánh, bị thiến, bị giết, thậm chí bị giết cả
dòng họ một cách tùy tiện, đổi lại với vinh dự được chà đạp những người dân vô
tội. Nếu may mắn thi đậu và làm quan thì cũng chỉ là để bắt đầu một cuộc đấu
tranh đơn độc để tranh giành ơn huệ của vua. Suốt cuộc đời của kẻ sĩ là một cuộc
đấu tranh của một người chống tất cả. Kẻ sĩ tuyệt đối không có ý định chống lại
để thay đổi chính quyền nên họ không biết cách đấu tranh để chống lại chính quyền.
Đối với họ làm chính trị chỉ là làm quan nên dù có những bằng cử nhân, tiến sĩ
họ cũng không biết gì về đấu tranh chính trị. Về đấu tranh chính trị họ chỉ là
những kẻ vô học, tệ hơn nữa những kẻ vô học không biết mình vô học.
Trên đây không phải chỉ
văn hóa Trung Hoa mà cũng là văn hóa Việt Nam bởi vì, cho đến khi bị Pháp chinh
phục và đô hộ, văn hóa và chính trị của chúng ta chỉ là một bản sao mờ nhạt của
Trung Quốc. Kẻ sĩ nước ta cũng chỉ là những dụng cụ của các vua chúa. Những
thay đổi chính quyền cũng chỉ là những thay đổi cung đình. Chỉ có hai ngoại lệ
: Lê Lợi là một thủ lãnh Mường nổi lên khi đất nước đã bị nước ngoài chiếm đóng
và cai trị, anh em Tây Sơn là một đảng cướp chiếm được chính quyền bằng bạo lực
vì cả hai họ Trịnh Nguyễn đều đã hoàn toàn tan nát. Giai cấp sĩ vắng mặt trong
những thay đổi chính quyền.
Hai thế hệ trí thức Việt
Nam 1945 và 1975 đã qua đi mà không để lại gì ngoài việc góp phần xây dựng ra
chế độ này. Họ chưa kịp trút bỏ tâm lý dụng cụ của giai cấp sĩ mà họ kế thừa.
Đã chỉ có một số ít người phản kháng nhưng không biết phải đấu tranh như thế
nào, vả lại một phần cũng đã chỉ phản kháng vì không được trọng dụng.
Đó là trí thức phe cộng sản. Còn
trí thức phe quốc gia ? Ngày 30 tháng 4-1975 thường được những người chống cộng
và luyến tiếc chế độ Việt Nam Cộng Hòa coi là ngày quốc hận. Cũng đúng nhưng
còn một mối hận khác bi đát không kém. Đó là từ năm 1975 hàng chục ngàn viên chức
cao cấp và tướng tá Việt Nam Cộng Hòa đã ra nước ngoài trong tuổi hoa của đời với
những học vị lớn nhưng họ đã không xây dựng được một lực lượng nào cả. Bây giờ
họ đã qua đi, con cháu họ đã hội nhập vào nước tiếp cư. Họ cũng là hậu duệ của
giai cấp sĩ như các trí thức cộng sản, nghĩa là cũng không biết phải đấu tranh
như thế nào.
Hai thế hệ sinh ra và lớn
lên sau ngày 30 tháng 4-1975 tuy đã khá hơn nhưng vẫn chưa đạt được thành quả
nào đáng kể vì vẫn chưa đoạn tuyệt hẳn được với di sản Khổng giáo. Vẫn còn nhiều
người ở lứa tuổi 30, 40 nuôi khát vọng trở thành nhân sĩ. Vẫn còn nhiều người
trẻ coi đấu tranh chính trị chủ yếu là để gây tiếng vang và để có tiếng tăm cho
mình, coi FaceBook không phải là phương tiện để kết bạn và kết hợp mà là phương
tiện cho phép mình trực tiếp đến với quần chúng mà không cần qua một tổ chức
nào. Lối đấu tranh chính trị kiểu nhân sĩ đó khiến họ nhìn những người dân chủ
khác như là đối thủ thay vì chí hữu, nhìn các tổ chức có đường lối đúng như là
những đe dọa cho mình thay vì những hy vọng cho đất nước. Nhiều người vẫn chưa
biết rằng chính trị cần phải học vì là chuyên môn khó nhất trong các chuyên
môn, chuyên môn tổng hợp mọi chuyên môn. Sự hụt hẫng kiến thức chính trị cũng
khiến họ không hiểu được rằng đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá
nhân cả mà chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức. Chính vì thế mà chế độ này vẫn
còn tiếp tục dù đã mất hết ý chí, lý tưởng và đạo đức, hơn nữa đã rã rượi và kiệt
quệ.
Một loại người mà đất
nước chưa bao giờ có đã xuất hiện và sẽ là những anh hùng của một truyện thuyết
mới.
Một truyện thuyết
mới cho đất nước
Tuy vậy thời điểm của
thay đổi đã đến bởi vì một loại người mà đất nước chưa bao giờ có đã xuất hiện
và sẽ là những anh hùng của một truyện thuyết mới.
Kỷ niệm 45 năm ngày 30
tháng 4-1975 là dịp để chúng ta nhận định một khúc quanh lịch sử.
Chúng ta đã vấp ngã khi
bước vào thời đại mới. Đã tụt hậu bi đát, đã trải qua một cuộc nội chiến ngu xuẩn
dài và đẫm máu. Đã mất đất, mất biển và mất đảo. Môi trường đã tổn hại nặng. Thất
vọng và phẫn nộ đã tích lũy khiến lòng người đã ly tán sau khi phải chịu đựng
quá lâu một chính quyền hành xử như một lực lượng chiếm đóng và một đảng cướp.
Tất cả chỉ vì chúng ta đã không có những trí thức đúng nghĩa mà kỷ nguyên
dân chủ đòi hỏi, thay vào đó do di sản độc hại của văn hóa Khổng giáo chúng ta
đã chỉ có những người đi học với mộng ước được làm những tay sai ngoan ngoãn
cho một bạo quyền.
Nhưng tình thế đã thay đổi.
Những người mà đất nước đòi hỏi, những trí thức chính trị, đã xuất hiện và đội
ngũ của họ đang gia tăng. Lớp người mới này sẽ là những tác nhân của cuộc cách
mạng loại bỏ chế độ độc tài cuối cùng và mở ra kỷ nguyên dân chủ, Kỷ Nguyên Thứ
Hai trong lịch sử dân tộc. Họ hiểu rằng đấu tranh chính trị chỉ có thể là đấu
tranh có tổ chức và họ cũng hiểu rằng một tổ chức chính trị mạnh chỉ có thể xây
dựng được trên một tư tưởng chính trị lành mạnh và một dự án chính trị đúng và
khả thi. Họ khinh bỉ chủ nghĩa nhân sĩ và các nhân sĩ. Đối với họ cuộc đấu
tranh này không thể nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai mà phải nhắm tôn vinh mọi
người trong một nước Việt Nam hòa giải và hòa hợp được quan niệm như một tình
yêu, một không gian liên đới và một dự án tương lai chung. Họ vững tin rằng
không gì mạnh bằng lẽ phải và một sự thực đã chín muồi và đất nước đã chín muồi
cho một cuộc chuyển hóa dứt khoát về dân chủ. Mọi người Việt Nam, kể cả đại bộ
phận đảng viên cộng sản, đều đã hiểu như vậy. Nhóm bảo thủ cầm quyền trong Đảng
cộng sản, chia rẽ và bất lực trước các thử thách ngày càng lớn trong khi Trung
Quốc không còn là một chỗ dựa, sẽ chỉ có chọn lựa tham gia vào tiến trình dân
chủ hóa để làm tác nhân thay vì nạn nhân của một thay đổi phải đến và đang đến.
Đất nước Việt Nam sau đó
sẽ động viên được mọi tiềm năng của mình và sẽ vươn lên mạnh mẽ.
Đó là truyện thuyết mới của
Việt Nam đang chờ được kể.
Nguyễn Gia Kiểng
(30/04/2020)
No comments:
Post a Comment