10/02/2021
https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/20514-toi-an-t-t
Từ
ngày bỏ nước ra đi, do không được sống gần các cộng đồng người Việt hải ngoại,
tôi ít có dịp "mừng" những ngày Tết truyền thống của dân tộc. Tuy
nhiên, mỗi dịp đầu năm Âm lịch, tôi cũng "ăn Tết" theo cách thế riêng
của tôi.
https://live.staticflickr.com/65535/50929235738_530a16e508.jpg
Ngôn
ngữ Việt Nam thật độc đáo : chúng ta không "cử hành" hay
"mừng" ngày đầu năm, mà lại nói "ăn tết".
Ai
cũng có quyền tự hào về ngôn ngữ của dân tộc mình. Mỗi ngôn ngữ đều có cái
"hồn" và nét độc đáo riêng mà không một ngôn ngữ nào có thể thay thế
được.
Một
trong những nét độc đáo của tiếng Việt hẳn phải là "âm điệu" của nó.
Với tai người ngoại quốc, thì người Việt Nam nói nghe như "hát". Lần
đầu tiên ra chợ, nghe hai bà bán cá cãi nhau, người ngoại quốc tưởng họ đang
hát là chuyện có thật ! Ngay cả khóc lóc ở nghĩa trang mà cũng còn có vần có
điệu nữa là !
Một
tác giả (không rõ là ngoại quốc hay Việt Nam) ký tên là Rene Pazzi đã viết một
cuốn sách có tựa đề "Người Việt đáng yêu", trong đó ông nói đến tinh
thần uyển chuyển và tế nhị của ngôn ngữ Việt như sau : "Ngôn ngữ Việt Nam
là ngôn ngữ duy nhất trên thế giới có nhiều giọng điệu cung bậc…
Phải
nghe người dân mỗi miền, người Bắc, người Trung, hay người Nam hát những bài
dân ca quen thuộc với tiếng nói thuần túy và giọng thuần túy của họ, chúng ta
mới thấy ý vị của giọng nói ấy đậm đà chừng nào.
Sự
phong phú trong âm thanh lại được thay đổi qua nhiều miền đất của quê hương họ…
VIDEO
: Album Dân Ca
Ba Miền | Tuyển Chọn những ca khúc trữ Tình quê hương mới hay nhất 2016
https://www.youtube.com/watch?v=1cot2BMFPJ4&feature=emb_logo
Nếu
phải tô mầu các giọng nói ấy, người ta có thể vẽ một bản đồ Việt Nam thật đẹp.
Có miền mầu xanh, có miền mầu hồng, có miền mầu trắng, có miền mầu vàng, đấy là
chưa nói mức độ đậm lợt khác nhau…" (1).
Sau
năm 75, nhiều người đã có lý để nói rằng tiếng Việt đã bị "hãm hiếp"
vì bị o ép đến độ mất đi âm điệu của nó. Trước kia, người Việt đâu có nói cộc
lốc như "ăn tốt", "làm tốt", "học tốt"… mà luôn
đệm vào đàng sau chữ "tốt" cái âm thanh "lành"
"đẹp" cho nó êm tai. Trước kia, người ta cũng chả nói "học sinh
trai", "học sinh gái", "bộ đội gái"… "Nam sinh,
nữ sinh, nữ quân nhân" nghe nó chẳng êm tai và tôn trọng hơn sao ?
Về
những từ hay âm điệu được ghép vào chữ "ăn", thì quả thật chẳng có
ngôn ngữ nào phong phú cho bằng tiếng Việt. Giở bất cứ quyển tự điển tiếng Việt
nào, tôi cũng đếm được gần 60 từ kép có chữ ăn : từ "ăn chay, ăn chận, ăn
chẹt, ăn chơi, ăn gian, ăn hại" đến "ăn mặc, ăn nằm, ăn sương, ăn
nắng…".
Người
Việt Nam quả có óc sáng tạo trong ngôn ngữ. Ngày nay ở Việt Nam, ở đâu cũng
thấy có hai chữ "văn hóa", từ khu phố văn hóa, làng văn hóa, nhà văn
hóa đến văn hóa ứng xử, văn hóa ăn uống, văn hóa chửi… Ngay cả như chữ
"ôm" cũng được cho "ôm" vào bất cứ những gì có thể
"ôm" được. Trước năm 75, người Việt Nam chỉ nghe nói đến "xe
ôm" hay cùng lắm là "bia ôm", nay lại có cả "thịt chó
ôm", "hớt tóc ôm", "ngủ trưa ôm"…đủ thứ
"ôm".
Nhưng
đó là những "sáng tạo" mới trong ngôn ngữ Việt Nam. Riêng động từ
"ăn" thì ngay từ ngàn xưa, ông bà tổ tiên chúng ta đã biết chế biến
để nó có thể đi với bất cứ từ nào.
Trong
bài viết có tựa đề "Miếng ăn trong văn hóa Việt Nam" (2), nhà
phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc nói rằng "hình như" "dân
tộc Việt Nam chỉ có một ám ảnh lớn : Ăn". Theo tác giả, bảo rằng văn hóa
Việt Nam quá coi trọng miếng ăn thì có vẻ hơi kỳ nhưng không chừng đó lại là sự
thật. Và tác giả đưa ra một số bằng chứng cho luận đề của ông như : muốn truyền
ngôi cho con, vua Hùng đã cho tổ chức thi nấu ăn để xem người nào làm được món
ăn ngon nhứt ; ông Thánh Gióng nhờ ăn mà lớn như thổi để, từ một đứa bé, biến
thành một trang thanh niên khôi ngô, dũng cảm ; trong tín ngưỡng dân gian Việt
Nam, cúng, tức dọn món ăn cho người chết, là chuyện rất phổ biến ; ông thần
được chú ý tới nhiều nhứt là Vua Bếp, tức ông Táo…
Người
Việt Nam quả "coi trọng" miếng ăn.
Hình
ảnh tôi vẫn giữ mãi trong ký ức của tuổi thơ đó là cảnh hàng hàng lớp lớp những
bà mẹ quê ngay từ sáng sớm đã gánh gồng đi qua hằng bao nhiêu cây số đến chợ,
trao đổi, mua bán để rồi mãi đến gần trưa mới trở về nhà lo miếng cơm cho chồng
con. Suốt một ngày sinh hoạt, người mẹ quê chỉ quanh quẩn trong xó bếp. Miếng
ăn quả đã chiếm hầu hết thời giờ của người dân quê. Người dân quê làm để có cái
ăn và ăn để có đủ sức làm. Lẩn quẩn trong cái vòng "làm ăn" ấy cho
nên có bảo rằng người Việt Nam "xem trọng" cái ăn cũng chẳng phải là
"cường điệu" chút nào.
https://live.staticflickr.com/65535/50929920831_6a1f6d75cf.jpg
Hàng hàng lớp lớp những bà mẹ quê ngay từ
sáng sớm đã gánh gồng đi qua hằng bao nhiêu cây số đến chợ, trao đổi, mua bán
để rồi mãi đến gần trưa mới trở về nhà lo miếng cơm cho chồng con.
Tuy
nhiên, lo toan cho cái ăn, xem trọng cái ăn, nhưng người Việt Nam vẫn luôn đề
cao cảnh giác bởi vì "miếng ăn là miếng tồi tàn". Xung quanh bàn ăn,
ông bà tổ tiên chúng ta đã phát huy được một thứ minh triết thật sâu sắc :
chính xuyên qua cái ăn mà con người thể hiện tư cách làm người của mình. Cái
ăn, như tác giả Nguyễn Hưng Quốc ghi nhận, chỉ "cách xử thế". Chính
vì thế mà chúng ta mới nói đến chuyện "ăn trên ngồi trốc, ăn cháo đá bát,
ăn xổi ở thì hay cố đấm ăn xôi". Vì tư cách con người và cách
đối nhân xử thế được thể hiện qua cái ăn và cách ăn, mà ông bà tổ tiên chúng ta
mới coi "học ăn" là bài học vỡ lòng quan trọng nhứt trong các thứ học
: học ăn rồi mới tới học nói, học gói, học mở… Lớn lên thì cũng phải giữ ý tứ
để biết "ăn coi nồi ngồi coi hướng".
Vì
cái ăn thể hiện tư cách con người cho nên đối với ông bà tổ tiên chúng ta, bàn
ăn, chỗ ăn, lúc ăn đều được xem là "thánh thiêng". Trời
đánh mà cũng phải tránh bữa ăn thì đủ biết cái ăn của người Việt
Nam đáng trân trọng như thế nào. Ngồi xếp bằng trên bộ ván gỗ, trên chõng tre,
quanh bàn ăn hay ngồi chồm hổm dưới đất, người Việt Nam qui tụ trong bữa ăn là
để "chia sẻ" cho nhau. Một nhà thừa sai ngoại quốc nọ nói rằng hình
ảnh đẹp nhứt trong bữa ăn của người Việt Nam chính là cái cảnh mọi người cùng
chấm chung một chén nước mắm, cùng xẻ chung một con cá trong một dĩa, cùng chan
chung một bát canh… Ăn thiết yếu là "ăn cùng", "ăn với"
người khác cho nên ăn cũng là chia sẻ. Như một phép lạ, thức ăn của người Việt
Nam xem ra chẳng bao giờ thiếu : một người khách lỡ độ đường ghé tạt vào nhà
nhằm đúng bữa ăn ư ? Chỉ cần dọn thêm một cái chén, một đôi đũa là giải quyết
được vấn đề !
Ăn
không chỉ là chia sẻ thức ăn, mà là chia sẻ niềm vui với nhau. Cơm không
lành canh không ngọt là điều chẳng ai muốn. Người Việt Nam thích vui vì
được chia sẻ. Đi ruộng bắt được một con cá lóc, một con ếch, một con rắn hay
một con chuột cũng đủ để làm một món nhậu và mời ông bạn láng giềng sang chung
vui sau một ngày làm lụng vất vả. Kẹt lắm, một trái khế hay trái xoài xanh cũng
đủ để lai rai vài xị.
Quả
thật, người Việt Nam thích sống vui. Cố linh mục Gildo
Dominici, người Ý có tên Việt Nam là "Đỗ Minh Trí", đã từng
làm việc tại Việt Nam trước 75 và sau đó phục vụ trong các trại tỵ nạn Galang,
Nam Dương và Bataan, Phi luật tân. Trong tác phẩm có tựa đề "Việt Nam quê
hương tôi", vị linh mục này đã viết về Ngày Tết của người Việt Nam như sau
: "Ngày Tết, không một người nào có vẻ nghèo cả ! Mọi người đều có
một chút gì để mà "ăn Tết". Người ta chấp nhận mang công mắc nợ để
rồi sau đó sẽ vất vả làm lụng để trả nợ, nhưng vào Ngày Tết người ta cần phải
tận hưởng. Mọi người đều có quyền ăn Tết", mọi người đều cảm thấy có bổn
phận vui hưởng Tết.
Bị
vây hãm bởi chiến tranh, nghèo nàn và đau khổ, người ta mong chờ ngày Tết để
được sống thật sự vài ngày ! Tết chính là cái khoảng thời gian kỳ diệu, chính
là một thời kỳ mà tất cả mọi người có thể thưởng thức được một chút gì hấp dẫn
của kiếp sống con người".
Nêu
lên câu hỏi : "Vậy, sự quyến rũ của Ngày Tết bắt nguồn từ đâu ?".
Linh mục Dominici trả lời : "Câu trả lời rất dễ dàng. Vẻ
duyên dáng quyến rũ của ngày Tết đã do chính người ta tạo ra ! Ngày Tết rất dễ
thương chính là vì người Việt Nam rất dễ thương... Người Việt Nam đã tạo ra một
ngày lễ để diễn tả hình ảnh của chính con người họ. Không một điều gì khác hơn
có thể diễn đạt được tinh thần của người Việt Nam bằng ngày Tết cả !
Tất
cả những người ngoại quốc đã từng sống ở Việt Nam đều nhận thấy nơi con người
Việt Nam có một cái gì lôi cuốn họ : tốt bụng, lịch thiệp, nhã nhặn, lễ phép,
dễ thương !" (sđd).
Đọc
những dòng trên đây, tôi cảm thấy hãnh diện, ấm lòng và nhứt là "vui như
ba ngày Tết". Thật vậy, chẳng có lúc nào vui cho bằng "ba ngày
Tết", nhứt là đối với trẻ con. Trong những kỷ niệm của tuổi thơ, tôi vẫn
nhớ mãi những ngày Tết trước khi diễn ra cuộc đảo chánh sát hại cố tổng thống
Ngô Đình Diệm. Trước thập niên 60 và ngay cả những năm đầu của thập niên này,
khi các hàng rào ấp chiến lược chưa bị phá vỡ, các làng quê đã thực sự hưởng
cảnh thái bình : đêm đến không có giới nghiêm, người dân có thể vui chơi cả
đêm. Người dân quê vẫn còn lấy cả tháng Giêng để "ăn chơi". Cả tháng,
cứ đêm đến, trẻ con chúng tôi đạp xe đạp đi từ làng này sang thôn khác để xem
hát bài chòi. Có cả một tháng vui chơi như thế là để nhắc nhở con người Việt
Nam lam lũ quanh năm vì cái ăn rằng "con người được tạo dựng để thụ hưởng
niềm vui và hạnh phúc, chứ không phải để đau khổ và bất hạnh. Cuộc sống của một
dân tộc sẽ trở nên phong phú và nhân bản hơn nếu cái dáng dấp bi thảm của khổ
đau được quân bình với hân hoan và hạnh phúc" (sđd).
Quân
bình giữa công việc và giải trí : đó là nét nổi bật trong cuộc sống của người
Việt Nam, mà Tết là một biểu trưng. Chính nhờ thế quân bình giữa cuộc sống vất
vả và việc vui hưởng cuộc sống mà người Việt Nam xem ra có được một giây thần
kinh rất vững chắc. Bất cứ người ngoại quốc nào phục vụ trong các trại tỵ nạn
Việt Nam tại các nước Đông Nam Á từ cuối thập niên 70 đến đầu thập niên 90 cũng
đều kinh ngạc về số lượng rất thấp những người bị rối loạn tâm trí giữa một số
lượng đông đảo người tỵ nạn đang sống trong một tình cảnh bi đát.
https://live.staticflickr.com/65535/50929920776_b0854654c5.jpg
Năm
nay tôi cũng "ăn Tết" theo cách thế của tôi : tôi sẽ cố gắng tận
hưởng từng khoảnh khắc hiện tại như một ân lộc Trời ban
Năm
nay, cũng như rất nhiều năm trong cuộc sống ly hương, tôi không biết thế nào là
bánh chưng, bánh tét, hay kẹo mứt. Trong nhà tôi cũng không có mâm quả
"cầu dừa đủ xài". Tôi cũng chưa bao giờ một lần thưởng thức món
"thịt mỡ dưa hành câu đối Tết". Còn cảnh "ngoài hiên đêm trước
một cành mai" thì chắc phải đến Tết Congo hay Maroc tôi mới có được ở
nơi đất khách quê người này. Nhưng cũng như mọi năm, năm nay tôi cũng "ăn
Tết" theo cách thế của tôi : tôi sẽ cố gắng tận hưởng từng khoảnh
khắc hiện tại như một ân lộc Trời ban ; tôi sẽ sống mỗi ngày như một ngày Tết…
Tôi nghĩ đó là bí quyết hạnh phúc mà ông bà tổ tiên muốn để lại cho con cháu
khi "bày ra Tết Nhứt".
Chu
Văn
(10/02/2021)
***
Chú thích :
(1) Doãn
Quốc Sỹ, Người Việt đáng yêu, Xuân Thu, 1990
(2)
Nguyễn Hưng Quốc, "Miếng ăn trong văn hóa Việt Nam", VOA
tiếng Việt, 15/10/2009
No comments:
Post a Comment