Tại
sao Washington phải chuyển trục về châu Á?
Kurt M. Campbell và Ely
Ratner - Foreign Affairs
Đỗ Kim Thêm, dịch
17/01/2021
https://baotiengdan.com/2021/01/17/tai-sao-washington-phai-chuyen-truc-ve-chau-a/
Lời
người dịch: Còn quá sớm để thảo luận về chính sách của Joe
Biden trong việc hàn gắn các di sản tệ hại của Donald Trump để lại. Yêu cầu
chính hiện nay là Trump có ra đi trong yêm thắm không và Joe Biden sẽ phải ổn định
nhân sự cho nội các mới như thế nào.
Việc hoạch định đường lối chống COVID-19, phục hồi
kinh tế và thanh danh của Hoa Kỳ trên chính trường quốc tế, đòi hỏi Joe Biden
phải mất từ bốn đến sáu tháng. Trong việc đối ngoại, ba yêu cầu mới dành cho
Joe Biden là Mỹ trở lại Thoả hiệp Paris về Khí hậu, chuyển trục về châu Á và hợp
tác với NATO và châu Âu. Nhưng trong mức độ nào lại là vấn đề khác. Chủ đề mà
người Việt quan tâm là Joe Biden tiếp tục hỗ trợ an ninh chiến lược ở Biển Đông
và thương chiến với Trung Quốc.
Tin mới nhất là, Joe Biden bổ nhiệm Kurt M. Campbell
chuyên trách về đối ngoại ở châu Á. Kurt M. Campbell từng là một chuyên gia được
chính giới suy đoán sẽ là Ngoại trưởng nếu Hillary Clinton thắng cử. Nay tình
thế đổi thay, Kurt M. Campbell trở lại chính trường gây nhiều lo ngại cho Trung
Quốc. Nhân dịp này, xin mời bạn đọc xem bản dịch của bài viết cũ gần 6 năm trước,
để tìm hiểu thêm quan điểm của ông Campbell về châu Á.
***
Hoa Kỳ đang ở trong thời
kỳ sơ khởi về một đề án cực kỳ quan trọng của đất nước: Chuyển hướng chính sách
đối ngoại để quan tâm hơn và tập trung các nguồn lực cho vùng châu Á – Thái
Bình Dương. Sau hơn một thập niên kết ước tận tình với Nam Á châu và Trung
Đông, Hoa Kỳ đã thể hiện việc tái lập những ưu tiên nhằm xét lại chiến lược
trong thời kỳ cần thiết hơn bao giờ hết. Chính sách này được cân nhắc dựa theo
ý tưởng là phần lớn lịch sử của thế kỷ 21 sẽ được viết ra tại vùng châu Á –
Thái Bình Dương, một khu vực đang nghênh đón sự lãnh đạo của Hoa Kỳ và bù đắp
cho kết ước này sẽ là những ân thưởng về các nguồn lợi đầu tư chính trị, kinh tế
và quân sự.
Do đó, chính quyền Obama
đã dàn dựng hàng loạt sáng kiến toàn diện về ngoại giao, kinh tế và an ninh, mà
ngày nay được nhiều người biết đến qua cụm từ chuyển trục hay tái quân bình hoá
về châu Á. Chính sách này được xây dựng dựa trên hơn một thế kỷ can dự của Hoa
Kỳ trong khu vực, kể cả những bước quan trọng do Tổng Thống Clinton và Georg W.
Bush thực hiện; và đúng như lời ghi nhận của Tổng thống Barack Obama, trong thực
tế, Hoa Kỳ đã là một cường quốc Thái Bình Dương. Nhưng việc tái quân bình này
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ biểu hiện một sự nâng cấp quan trọng về vị
thế của châu Á.
Những vấn đề liên quan tới
mục tiêu và phạm vi của phương cách mới đã hiện ra khi Ngoại trưởng Hillary
Clinton đề xuất nhằm minh định chiến lược, và lần đầu tiên, bà sử dụng cụm từ
chuyển trục để mô tả chiến lược này trong một bài viết cho tạp chí Foreign
Policy vào năm 2011. Gần ba năm sau, chính quyền Obama vẫn còn phải đương đầu với
việc giải thích khái niệm và đưa ra lời hứa hẹn. Nhưng cho dù có những duyệt
xét cực kỳ thận trọng và những trở ngại ngắn hạn trước sách lược này, người ta
ít có nghi ngờ gì khi có sự thay đổi quan trọng đang xảy ra.
Dù Washington có muốn hay
không, châu Á sẽ chờ đợi Hoa Kỳ nhiều quan tâm và nguồn lực hơn, vì nhờ vào sự
thịnh vượng và ảnh hưởng của khu vực ngày càng tăng lên – và các thách thức to
lớn mà khu vực này đề ra. Vì thế, vấn đề đặt ra là, cho dù Hoa Kỳ có muốn đặt
trọng tâm vào châu Á hay không, Hoa Kỳ có thể thực hiện chính sách này với cách
giải quyết cần thiết, các nguồn lực và sự khôn ngoan.
Chuyển hướng về
phía Đông
Khu vực châu Á – Thái
Bình Dương có sức hút không thể nào làm ngơ được. Vùng này là quê hương của hơn
phân nửa dân số toàn thế giới và có một nền dân chủ lớn nhất thế giới (Ấn Độ),
có nền kinh tế đứng hạng thứ nhì và thứ ba thế giới (Trung Quốc và Nhật Bản),
và có một quốc gia có dân số theo Hồi giáo nhiều nhất thế giới (Indonesia) và
là bảy trong số mười quân đội mạnh nhất toàn cầu. Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) tiên đoán, trước giữa thế kỷ này, khu vực này sẽ chiếm nửa tổng sản lượng
kinh tế thế giới và bao gồm bốn nền kinh tế mạnh nhất (Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia và Nhật Bản) trong số mười nền kinh tế toàn cầu.
Nhưng chính con đường
thăng tiến của châu Á, chứ không chỉ quy mô chóng mặt của nó, mới là nhân tố
khiến khu vực này có kết quả như thế. Theo tổ chức Freedom House, trong suốt
năm năm vừa qua, châu Á – Thái Bình Dương là khu vực duy nhất có những tiến bộ
kỷ lục đều đặn về các quyền lợi chính trị và tự do dân sự. Dù các nước châu Á
còn có những vấn đề thiếu khả năng của thị trường đang trỗi dậy để duy trì tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng, nhưng đã biểu hiện cơ hội hứa hẹn nhất trong một nền
kinh tế toàn cầu nhiều khó khăn và bất trắc.
Cùng lúc, châu Á đấu
tranh với vấn đề bất ổn thường trực, do hành động cực kỳ khiêu khích của Bắc
Hàn, gia tăng ngân sách quốc phòng trong khu vực, tranh chấp lãnh hải, gây lo
âu trong mối quan hệ giữa phiá Đông Trung Quốc và các vùng biển Nam Trung Hoa
(Biển Đông) và những đe doạ an ninh mới, thí dụ như thiên tai, nạn buôn người
và buôn bán bạch phiến.
Hoa Kỳ có quan tâm đúng đắn
trong tiến trình mà châu Á đang theo đuổi trong những năm tới. Khu vực này là
nơi tiếp nhận hàng xuất khẩu nhiều nhất của Hoa Kỳ, qua mặt châu Âu 50%. Theo
Cơ Quan Thống Kê của Hoa Kỳ, cả hai lượng đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào châu
Á và châu Á vào Hoa Kỳ tăng lên gấp đôi. Theo Cơ Quan Phân Tích Kinh Tế Hoa Kỳ,
trong thập niên vừa qua, nguồn đầu tư trực tiếp vào Hoa Kỳ tại Trung Quốc, Ấn Độ,
Singapore và Hàn Quốc tăng lên tới 4/10.
Hoa Kỳ đã có năm Hiệp Ước
Liên Minh Quân Sự trong vùng (Úc, Nhật, Philippines, Hàn Quốc và Thái), cũng
như các Hiệp Ước Đối Tác quan trọng với Brunei, Ấn, Indonesia, Malaysia, New
Zealand, Singapore và Đài Loan và có những quan hệ mới với Myanmar. Những căn cứ
quân sự chính của Hoa Kỳ tại Nhật và Hàn Quốc là trung tâm cho khả năng hoạt động
của Washington trong việc hướng quyền lực về châu Á.
Những Liên Minh Quân Sự của
Hoa Kỳ ít gây khó khăn cho an ninh khu vực trong nhiều thập niên, và một trong
những mục tiêu chủ yếu của việc chuyển trục là đào sâu mối quan hệ. Trong những
năm gần đây, Washington đã thúc đẩy các đối tác tại châu Á ngăn ngừa các xung đột
giữa các cường quốc, tiếp tục mở rộng đường hàng hải, chống quân quá khích, và
giải quyết các đe dọa an ninh bất thường. Nhật Bản và Hàn Quốc cố giữ vai trò
quan trọng trong các cuộc hành quân hỗn hợp với Hoa Kỳ. Quân đội Hoa Kỳ đang hợp
tác với Úc nhằm triển khai những khả năng đổ bộ với Philippines để phát triển
tuần tra bờ biển. Kết quả chung cuộc là tạo nên những liên minh có sức mạnh hơn
và một khu vực có an ninh hơn.
Không một đề nghị nào nhằm
nỗ lực để vây hãm hay làm suy yếu Trung Quốc. Ngược lại, phát triển mối quan hệ
vững chắc và sinh lợi với Bắc Kinh biểu hiện mục tiêu chính yếu trong sách lược
tái quân bình. Trong nhiều năm qua Hoa Kỳ không tìm cách ngăn chận Trung Quốc,
mà xây dựng mối quan hệ song phương chín chắn thông qua các cuộc họp bất thường
hay định kỳ giữa các giới chức cao cấp trong nhiều chủ đề hay qua cơ chế cuả bộ
máy hành chánh hai nước. Ngay cả khi mối quan hệ quân sự đang trở lại đúng chiều
hướng, đây là lúc khởi động khả năng của Lầu Năm Góc trong việc thích nghi với
các mức độ hoạt động do Bắc Kinh đề đạt.
Chuyển trục về
châu Á và trong châu Á
Chiến lược tái lập quân
bình cũng kêu gọi nâng cao hơn về kết ước của Hoa Kỳ với các thể chế đa phương
trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương . Dưới thời chính quyền Obama, Hoa Kỳ có
được vai trò hội viên trong Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á, một cuộc họp hàng năm
quy tụ các vị lãnh đạo các quốc gia. Hoa Kỳ đã ký kết Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp
Tác tại Nam châu Á và có Đại sứ thường trực bên cạnh ASEAN tại Jakarta.
Dù các thể chế này chồng
chéo gây phức tạp, tạo mức độ chậm chạp, và những đòi hỏi về sự đồng thuận, các
thể chế này cổ vũ tinh thần hợp tác điạ phương và giúp đỡ việc xây dựng hệ thống
luật pháp và cơ chế để giải quyết các thách thức phức tạp liên quốc gia. Thí dụ,
tháng 6 năm 2013, ASEAN tổ chức lần đầu cuộc hội thảo về cứu hộ nhân đạo và thực
tập việc cứu hộ thiên tai gồm có hơn 3.000 nhân viên của 18 quốc gia.
Trong khi đó, Hoa Kỳ đang
đáp ứng với thực tế mới là khu vực châu Á – Thái Bình Dương càng ngày càng tăng
trưởng trong nền kinh tế toàn cầu. Chính quyền Obama nâng cao quan tâm kinh tế
của Hoa Kỳ trong việc áp dụng Hiệp Uớc Tự do Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc
trong năm 2012. Hoa Kỳ thúc đẩy việc hoàn tất đàm phán Đối Tác Xuyên Thái Bình
Dương (TPP), một thoả ước mậu dịch quy mô giữa 12 quốc gia. Một số các quốc gia
tham dự đàm phán TPP là các thị trường sôi động tại Đông Nam Á, như Malaysia và
Singapore, phản ánh tầm quan trọng về địa chính trị của khu vực.
Thực vậy, chuyển trục của
Hoa Kỳ về châu Á cùng kết hợp với chuyển trục ngay trong nội bộ châu Á.
Washington đang quân bình việc nhấn mạnh có tính cách lịch sử tới các quốc gia
thuộc về Đông Bắc châu Á với các quan tâm mới về các quốc gia Đông Nam Á, thí dụ
như Indonesia, Philippines và Việt Nam, tìm kiếm gia tăng mậu dịch hai chiều và
đầu tư với những nền kinh tế năng động nhất thế giới. Năm 2010, Washington và
Jakarta thiết lập quan hệ đối tác toàn diện nhằm mở rộng hợp tác trong nhiều đề
tài khác nhau, kể cả y tế, khoa học, kỹ thuật và doanh nghiệp.
Một mong ước tương tự nhằm
điều chỉnh lại những ưu tiên của Hoa Kỳ trong khu vực giúp giải thích những
thay đổi của Lầu Năm Góc về vị thế quân sự. Mặc dù các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ
tại Đông Bắc châu Á vẫn là trung tâm của các khả năng hoạt động của Washington
nhằm dự phóng quyền lực và chiến đấu, các căn cứ này có thể bị tổn hại nhiều
hơn khi phá hủy những khả năng tấn công bằng hoả tiễn. Các căn cứ này tương đối
đặt xa các nơi có thể có tai biến và khủng hoảng trong biển Nam Trung Hoa (Biển
Đông) và Ấn Độ. Trong khi đó, các quốc gia Đông Nam Á biểu lộ mối quan tâm nhiều
hơn khi nhận huấn luyện quân sự và viện trợ về cứu hộ thiên tai của Hoa Kỳ, Hoa
Kỳ cũng tạo ra nhiều loại ấn tượng quân sự trong khu vực, từ việc hàng trăm
binh sĩ hải quân đóng tại Darwin, Úc, cho đến vài đơn vị tàu chiến tại
Singapore.
Những thay đổi trong vị
thế quân sự của Hoa Kỳ gây ra nhiều phê phán cho là hoặc là khiêu khích hoặc vô
nghĩa. Cả hai cáo buộc này không đáng kể. Những nỗ lực này không thể xem là tấn
công, nhưng lại đóng góp chủ yếu vào trong những hoạt động hoà bình, thí dụ như
đáp ứng được những thiên tai và không thuộc về khả năng chiến đấu của Hoa Kỳ. Một
số lực lượng khiêm nhường của hải quân và tàu chiến được huy động che đậy những
quyền lợi đáng kể mà Hoa Kỳ cung ứng cho các đối tác quân sự, khi các đối tác
này có được những cơ hội hiếm có trong việc thực tập và huấn luyện hỗn hợp với
các lực lượng của quân đội Hoa Kỳ.
Khi chuyển trục về châu
Á, chính quyền Obama không chỉ tìm kiếm gia tăng sự quan tâm về kinh tế và an
ninh, mà còn đào sâu mối quan hệ văn hoá và nhân sự. Chính phủ cũng hy vọng nhiều
hơn việc chuyển trục sẽ giúp Hoa Kỳ hỗ trợ hoạt động nhân quyền và dân chủ
trong khu vực. Phương cách mới này đã đóng góp sự thăng tiến tại Myanmar, nơi
mà chính quyền có những bước tiến đáng kể, thí dụ như thả tù nhân chính trị, áp
dụng những cải cách kinh tế đã quá muộn màng, và cổ vũ quyền tổ chức và cho báo
chí tự do nhiều hơn. Cho dù nhiều tiến bộ là thiết yếu, đặc biệt nhất là bảo vệ
các sắc tộc thiểu số, Myanmar được xem như là một mẫu mực quyền lực của một đất
nước khép kín và thô bạo nay chuyển sang bước chuyển hoá, và Hoa Kỳ là người bạn
đối tác trong những nỗ lực cải cách này ngay từ khởi đầu.
Chính sách đối ngoại
không phải là trò chơi: Được ăn cả, ngã về không
Giới chống đối chính sách
chuyển trục đưa ra ba phản biện chính yếu. Thứ nhất, một số lo ngại rằng chuyển
trục là chuyện bài Hoa không cần thiết. Sự giải thích lầm lạc này không biết đến
một sự thật là đào sâu kết ước với Bắc Kinh là một đặc trưng chủ yếu và không
thể lầm lạc về một sách lược tái quân bình. Những thí dụ về sách lược mới này
bao gồm cả thiết lập đối thoại kinh tế và chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc,
một loạt các cuộc họp toàn diện do Bộ Ngoại Giao và Bộ Tài Chính Hoa Kỳ và
Trung Quốc đồng chủ trì.
Đối thoại An ninh Chiến
lược mà cả hai nước có những thảo luận bất thường của các giới chức cao cấp về
những đề tài nhạy cảm như an ninh lãnh hải và an ninh trên mạng điện tử. Xung đột
có thể xảy ra do sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tăng lên tại châu Á và những
hoạt động ngoại vi hùng hậu của Washington cho Trung Quốc. Nhưng những mối dây
liên hệ song phương đang phát triển trong một đường lối mà bất cứ sự bất đồng
nào do chuyển trục tạo nên cũng sẽ được giải quyết trên một căn bản rộng rãi
hơn của mối quan hệ Mỹ – Trung đang ngày càng ổn định và có nhiều hợp tác hơn.
Việc chỉ trích thứ nhì bắt
nguồn từ lập luận là chuyển trọng tâm của Washington từ Trung Đông sang châu Á
trước những xung đột tại Afghanistan và Syria, bất ổn tại Ai Cập và Iraq, đối đầu
lâu dài giữa Iran và các cường quốc phương Tây, là một quyết định thiếu khôn
ngoan và không thực tế. Nhưng điểm phê phán này nhằm châm biếm chiến lược tái
quân bình. Theo quan điểm này, Trung Đông và Nam châu Á đã làm suy yếu dần quyền
lực và uy tín của Hoa Kỳ.
Thật ra, chuyển trục là một
thử nghiệm nhằm hủy bỏ và chuyển đến nơi an toàn và sinh lợi của vùng châu Á –
Thái Bình Dương. Chắc chắn một điều là chính quyền Obama cố gắng làm giảm bớt
những dấu ấn của Hoa Kỳ tại Trung Đông. Nhưng ngay khi các nguồn lực này có giới
hạn, chính sách đối ngoại không phải là một trò chơi ‘được ăn cả, ngã về
không‘. Giới phê bình lập luận tập trung hơn về châu Á là một cách gì đó mà họ
chấp nhận sự thất bại chiến lược tại Trung Đông, và đó là một thực tại chính yếu.
Trong thập niên vừa qua, các quốc gia châu Á mà Washington muốn quan tâm nhiều
hơn đã âm thầm xây dựng phần đóng góp chính trong việc thúc đẩy hoà bình và ổn
định cho Trung Đông và Nam châu Á. Các quốc gia này cũng muốn Hoa Kỳ luôn giữ
những ảnh hưởng tại khu vực này.
Cách đây không lâu, hầu hết
các quốc gia châu Á quan tâm chủ yếu đến việc phát triển nội tình và có khuynh
hướng nhìn các vấn đề khác như là chuyện trách nhiệm của người khác. Một trong
những thành công quan trọng nhất trong chính sách của Tổng thống George W. Bush
là thúc đẩy những các nước đang trỗi dậy nên đóng góp nhiều hơn cho các nơi
khác trên thế giới. Trong những năm thuộc nhiệm kỳ của Bush, cũng là lần đầu
tiên, có một phần trong sự đáp ứng này là một vài chính phủ Đông Á triển khai một
viễn kiến ngoài khu vực và can dự nhiều hơn về ngoại giao, phát triển và an
ninh tại Trung Đông và Nam Châu Á.
Nhật Bản trở thành nước hỗ
trợ chính cho phong trào phát triển xã hội dân sự tại Afghanistan, tài trợ trường
học và tổ chức phục vụ dân sự, và huấn luyện về tư pháp hình sự cho người
Afghanistan, giáo dục, y tế và nông nghiệp. Trong trào lưu trỗi dậy của muà
xuân Á Rập, Hàn Quốc đã hỗ trợ phát triển cho Trung Đông. Indonesia, Malaysia
và Thái Lan cung ứng các viện trợ vật chất trong các chương trình huấn luyện
cho bác sĩ, sĩ quan cảnh sát, giáo chức tại Afghanistan Iraq, Úc và Tân Tây Lan
đã gởi những lực lượng đặc biệt chiến đấu tới Afghanistan. Ngay cả Trung Quốc
cũng tích cực hơn trong một chính sách ngoại giao thầm lặng nhằm cưỡng chế tham
vọng nguyên tử của Iran, giải quyết nạn cướp biển và tham gia việc xây dựng
tương lai cho Afghanistan.
Dĩ nhiên, thúc đẩy của
Washington không chỉ là yếu tố duy nhất đứng sau sự can dự ngày càng tăng lên của
các quốc gia châu Á cho vùng Trung Đông, một yếu tố khác không thể phủ nhận được
là sự thèm khát ngày càng nhiều về dầu khí tù vùng vịnh Ba Tư. Châu Á tiêu thụ
30 triệu thùng dầu một ngày, hơn hai lần số lượng của các quốc gia châu Âu.
Các chính phủ châu Á biết
rằng việc triệt thoái vội vã của Hoa Kỳ ra khỏi Trung Đông sẽ mang lại nguy hiểm
không thể chấp nhận được về mặt an toàn năng lượng và tăng trưởng kinh tế. Do
đó, các quốc gia này đầu tư tài chính và chính trị vào Trung Đông, và trong hơn
một thập niên qua một vài trường hợp, họ gởi lực lượng quân sự để nhận bổ túc
mà không thay thế vai trò bình ổn của Hoa Kỳ. Nói một cách đơn giản, các đối
tác châu Á của Washington hỗ trợ cho việc chuyển trục nhưng cổ vũ cho triển vọng
việc giải kết của Hoa Kỳ tại Trung Đông, và chủ yếu nhất là họ dường như cũng
không thấy bất cứ tương phản nào giữa hai quan điểm này.
Lập luận thứ ba chống lại
chuyển trục liên quan đến tính bền vững của sách lược này trong thời kỳ ngân
sách bị cắt giảm. Trong khi kinh phí quốc phòng ít đi, những người hoài nghi ngạc
nhiên làm sao Hoa Kỳ lại có thể đầu tư những nguồn lực cần thiết để trấn an những
đồng minh châu Á và xoa dịu những kẻ luôn muốn khiêu khích, đặc biệt là trong
khi quyền lực và ảnh hưởng Trung Quốc đang lan rộng. Câu trả lời là chuyển trục
về châu Á không đòi hỏi tài trợ mới quá nhiều tốn kém. Đúng hơn, Lầu Năm Góc
nên cần tìm cách chi xuất uyển chuyển và hữu hiệu hơn.
Thí dụ, khi giảm quy mô của
quân đội, Hoa Kỳ phải duy trì sự hiện diện quân đội tại châu Á và đầu tư nhiều
hơn về các khả năng không quân và hải quân để thích ứng hơn với tình hình an
ninh khu vực. Trước tình hình kinh phí quốc phòng Hoa Kỳ không thể nào gia tăng
đáng kể trong bất kỳ lúc nào, Washington phải làm việc nhiều hơn để cải thiện
khả năng quân sự cuả châu Á bằng cách tạo nhiều trao đổi về giáo dục và nghiệp
vụ, gia tăng diễn tập quân sự đa phương, chuyển giao trang thiết bị mà quân đội
Hoa Kỳ không còn cần đến và tham gia nhiều hơn các hoạch định chung.
Hành động quân
bình hoá
Mặc dù những lập luận
quen thuộc chống lại tái quân bình không đứng vững, nhưng chính sách gặp nhiều
thách thức nghiêm trọng. Có lẽ khó khăn chính là vấn đề thiếu nguồn nhân lực.
Sau hơn một thế kỷ chiến tranh và chống địch vận, Hoa Kỳ đã triển khai và phát
huy một thế hệ gồm toàn là lính chiến, nhà ngoại giao và chuyên gia tình báo
lành nghề cho đấu tranh sắc tộc tại Iraq, xung đột bộ lạc tại Afgahnistan, những
chiến lược tái thiết hậu xung đột, các Lực Lượng Đặc Nhiệm và các chiến thuật
thám thính không sử dụng người. Dù Washington không có những nỗ lực tương tự
nào để đào tạo một tầng lớp chuyên gia các vấn đề châu Á trong các chính quyền,
và có một số lượng đáng ngạc nhiên của các giới chức cao cấp đến thăm khu vực
này lần đầu tiên, khi họ đã đạt đến chức vụ then chốt vào cuối đời công vụ. Đây
là một mặt yếu kém đích thực trong nền tảng của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ,
bởi vì hầu hết các công chức lão luyện gặp phải khó khăn khi lặn hụp trong hoàn
cảnh phức tạp tại châu Á, mà trước đó họ không hề có kinh nghiệm về khu vực
này.
Vì thế, chuyển trục về
châu Á ảnh hưởng đến ngân sách của các cơ quan dân sự của chính phủ, mà không ảnh
hưởng đến Lầu Năm Góc, trong khi Hoa Kỳ đầu tư nhiều hơn để đảm bảo được rằng
các nhà ngoại giao, chuyên viên chương trình viện trợ phát triển, giới đàm phán
mậu dịch, chuyên gia tình báo có được khả năng ngôn ngữ và đại diện tại châu Á
mà họ cần có để có thể hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn.
Chuyển trục cũng bị đặt
trong tình hình khủng hoảng thuờng xuyên mà các khu vực khác, đặc biệt nhất là
Trung Đông, chắc sẽ tác động nhiều hơn. Cùng lúc, áp lực do tình hình quốc nội
tạo nên chắc chắn là càng nhiều hơn. Theo sau mỗi một khủng hoảng Hoa Kỳ thời
hiện đại, từ Thế Chiến I cho đến chiến tranh vùng Vịnh 1990-1991, công luận đã
tạo áp lực lên chính giới và giới chức là cần chuyển hướng đến các vấn đề quốc
nội. Thời gian 13 năm qua trong chiến tranh lại tạo ra một thái độ co mình lại
theo bản năng, nhưng lại được đề cao vì việc hồi phục kinh tế quá chậm chạp sau
thời khủng hoảng. Dù các ràng buộc do quốc tế và nhu cầu quốc phòng vẫn còn
trong chính sách của Hoa Kỳ, tại Quốc hội đã có những dấu hiệu tinh tế, nhưng
không quá khôn khéo, là Hoa Kỳ có thể sẽ đi vào một kỷ nguyên mới mà những kết
ước của Hoa Kỳ ở hải ngoại sẽ khó khăn hơn, thí dụ như tại châu Á, cho dù đây
là khu vực chính đem phúc lợi kinh tế cho đất nước. Những cưỡng chế chính trị
này làm cho công việc đã khó lại càng khó hơn, khi liên hệ đến châu Á, lịch
trình công việc quá nhiều cho thời gian còn lại của chính quyền Obama và thời
gian sắp tới.
Các đối tác của
chính sách chuyển trục
Tại châu Á, kinh tế và an
ninh là hai vấn đề kết chặt nhau, và Hoa Kỳ sẽ không có khả năng duy trì sự
lãnh đạo độc nhất thông qua quyền lực quân sự. Đó là lý lo tại sao mà kết thúc
thương ước TPP thành công là ưu tiên chính, một vấn đề cần có sự thương thuyết
khẩn trương với hải ngoại và Quốc hội.
Thương ước đem lại lợi
trước mắt cho kinh tế Hoa Kỳ và tạo hệ thống mậu dịch trường kỳ tại châu Á và
không thể bị đình trệ do chủ thuyết bảo hộ. Tạo cho Hoa Kỳ thêm một đòn bẩy để
thương thuyết, Quốc hội cần tái thẩm định thẩm quyền tăng tốc phát triển mậu dịch.
Trong thể chế này thì sau khi thương thuyết TPP và các thoả ưóc tự do mậu dịch
khác, Nhà Trắng cần trình Quốc hội phê chuẩn, mà không thể tu chỉnh hay trì
hoãn các thương lượng. Chính quyền Obama phải thúc đẩy chương trình năng lượng
và gia tăng xuất khẩu khí đốt hóa lỏng cho châu Á để gia tăng an ninh năng lượng
của các đồng minh và đối tác và chuyển đến họ một tín hiệu mạnh của kết ước Hoa
Kỳ về sự phát triển khu vực.
Kết ước đã từng sâu đậm của
Washington với Bắc Kinh đã đem lại nhiều thuận lợi khi cả hai nước hợp tác
trong sách lược đối với Iran và Bắc Triều Tiên trong khi cách xử lý khủng hoảng
về vùng biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) vẫn còn tiềm tàng. Nhưng Hoa Kỳ còn nhiều
khó khăn trong mối quan hệ với Trung Quốc đang trỗi dậy, mà giờ đây thành đối
tác chiến lược như Tổng thống Bill Clinton mô tả vào năm 1998 và cũng là một
người cạnh tranh chiến lược như Bush sau này có phụ họa.
Những nỗ lực của Trung Quốc,
thí dụ như nhắm thay đổi quy chế lãnh thổ trong vùng biển Đông và Hoa Đông, bằng
cách thiết lập cách xác định bảo vệ không phận tại biển Đông Trung Quốc, về các
hải đảo mà Nhật Bản nắm giữ thể hiện những thách thức hiện nay. Hoa Kỳ xác định
là thái độ xét lại là không phù hợp với bang gia Hoa Mỹ, ít nhất là trong khuôn
mẫu mới của các đại cường mà Chủ tịch Tập Cận Bình đã đề nghị với Obama. Gần
đây, Washington theo theo một bước đúng đắn trong chiều hướng này khi các giới
chức công khai chất vấn các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc có hợp pháp không
và cảnh báo chống lại việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không, mà biển Nam
Trung Hoa (Biển Đông) là một trường hợp.
Thông qua vùng biển Hoa
Đông, qua nhiều thập niên suy bại kinh tế, Thủ tướng Shinzo Abe đang tìm cách
chuyển hướng Nhật Bản và bơm cho đất nước một cảm giác mới về lòng tự hào và uy
thế. Washington sẽ tiếp tục thúc giục Tokyo hành động một cách có kìm chế và nhạy
cảm, đặc biệt nhất là khi có dính líu tới những tranh luận liên quan đến thời
phong kiến trong quá khứ. Gần đây, Abe đã đi thăm đền Yashkuni Shrine nhằm vinh
danh những người quá cố trong chiến tranh Nhật, trong đó có một vài tội phạm
chiến tranh trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Việc thăm viếng này giúp cho ông trong
một vài địa phương tranh cử tại quê nhà, những phản ứng quốc tế lại là một cái
giá quá cao phải trả. Sự việc đặt nhiều vấn đề cho Washington, thay đổi bang
giao Nhật và Hàn Quốc và làm cho Trung Quốc tỏ ra kiên quyết hơn là không có
thiện chí thương thuyết trực tiếp vớí Nhật trong khi Abe còn cầm quyền.
Chìm đắm trong những bối
cảnh ngoại giao, Hoa Kỳ muốn hợp tác với Lực Lượng Phòng Vệ Dân Sự của Nhật Bản
để cho Nhật Bản có một vai trò tích cực hơn trong vấn đề an ninh cho khu vực và
toàn thế giới. Chính sách này gây ra tuyên truyền chống đối của Trung Quốc. Họ
cho là tìm cách giải thích hiện pháp Nhật và hiện đại hoá quân đội xem như đặc
điểm của phản động hay quân phiệt, thực ra đây là những bước tiến hợp lý hoàn
toàn và muộn màng. Hoa Kỳ cũng sẽ tập trung khà năng chính trị để cai thiện mối
quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc. Mối quan hệ vững mạnh giữa hỗ trợ trong việc ứng
xử với Bắc Hàn, mối đe doạ ngày càng trầm trọng.
Những thách thức trong
vùng Đông Nam Á hoàn toàn khác biệt với Đông Bắc. nhưng ít quan trọng hơn quyền
lợi của Hoa Kỳ. Một số các quốc gia Đông Nam Á như Cambodia, Malaysia, Miến và
Thái đang trãi qua những biến động chính trị mà có thể làm thay đổi chính sách
ngoại giao. Do tình thế đòi hỏi, Hoa Kỳ phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của
dân chủ và nhân quyền, mà không hành động một cách quá giáo điều hay bằng cách
giảm đi tầm quan trọng và ảnh hưởng. Chính ra là để đánh cược cho thắng, sách
lược tốt nhất là phải tập trung vào những đề tài mà toàn dân chúng trong khu vực
quan tâm, thí dụ như giáo dục, chống nghèo đói và phòng chống thiên tai, và
không quan trọng là ai đang nắm quyền.
Cộng thêm vào sự tham gia
của Hoa Kỳ trong các diễn đàn đa phương tại châu Á, Washington phải hỗ trợ cho
việc phát triển một trật tự khu vực trên căn bản luật pháp bằng cách tung hết mọi
sức để hỗ trợ cho nỗ lực sử dụng luật quốc tế hay trọng tài để giải quyết vấn đề
tranh chấp lãnh thổ tại biển Nam Trung Hoa. Philippines đã có những yêu sách cạnh
tranh đối với Trung Quốc trước Toà Án Quốc Tế về Luật Biển. Không phán xét nào
trong hiện tại về kết quả của các tranh chấp này, Washington phải giúp có được
một sự đồng thuận quốc tế bằng cách kêu gọi tất cả mọi quốc gia châu Á công
khai hỗ trợ cơ chế này bởi vì toà án biểu hiện sự thử thách cho biết khu vực
này có chuẩn bị xử lý các vụ tranh chấp thông qua phương tiện luật pháp và hiếu
hoà hay không.
Hoa Kỳ không thể tự mình
thực hiện việc tái quân bình châu Á. Điểm chính là mang các quốc gia châu Âu
cùng đồng hành để tạo những đóng góp chính cho khu vực trong lĩnh vực thí dụ
như luật quốc tế và xây dựng thể chế. Nếu chiều hướng của quan hệ song phương
cho phép, Washington phải khám phá cơ hội để đóng góp nhiều hơn cho Đông Á với Ấn
Độ và Liên Xô. Và dĩ nhiên điều cần yếu cho những quốc gia trong khu vực này, đặc
biệt là tại Đông Nam Á, chứng tỏ khả năng lãnh đạo và sáng kiến để bổ túc cho
những nỗ lực cuả Hoa Kỳ. Điểm chính của chính sách chuyển trục về châu Á nhằm
thúc đẩy tạo ra một khu vực cởi mở, hoà bình và thịnh vượng mà các chính quyền
dưạ vào luật pháp và thể chế để giải quyết các tranh chấp, hơn là dựa vào cưỡng
chế và bạo lực. Chuyển trục
là sáng kiến của Hoa Kỳ, nhưng thành công tối hậu sẽ không đơn thuần tùy thuộc
vào Washington.
***
Kurt
M. Cambell, Phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ chuyên trách Đông Á và
Thái Bình Dương (2009-2013), hiện là Giám đốc điều hành Asia Group.
Ely
Ratner, Phụ tá Giám đốc Chương trình Đông Á Thái Bình
Dương của Center for a New American Security.
Nguyên tác: Far Eastern Promises: Why Washington Should Focus on
Asia
No comments:
Post a Comment