Một Đảng
thất bại - Một người trong cuộc
chia tay với Bắc Kinh
Thái Hà (Cai Xia) - Foreign
Affairs
Người dịch: Huỳnh
Hoa
30/12/2020
http://www.viet-studies.net/kinhte/PartyThatFailed_FA_trans.html
Nguyên văn: The
Party that Failed - An Insider Breaks with the Chinese Communist Party, Foreign
Affairs Jan/Feb 2021
Khi
Tập Cận Bình (Xi Jinping) lên cầm quyền năm 2012, tôi tràn trề hy vọng cho
Trung Quốc. Là giáo sư một trường uy tín chuyên đào tạo các nhà lãnh đạo hàng đầu
của đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tôi đủ hiểu biết lịch sử để kết luận rằng
thời điểm Trung Quốc mở cửa hệ thống chính trị đã qua rồi. Sau một thập niên
trì trệ, ĐCSTQ cần cải cách hơn bao giờ và Tập, tỏ dấu hiệu cho thấy là người
có thiên hướng thay đổi, dường như sẽ là người dẫn dắt cuộc cải cách đó.
Khi ấy
tôi đã đi được một nửa quá trình kéo dài hàng thập niên vật lộn với hệ tư tưởng
chính thức của Trung Quốc dù tôi có trách nhiệm giáo huấn hệ tư tưởng đó cho
các quan chức. Có thời là một người Marxist nồng nhiệt, tôi đã chia tay với chủ
nghĩa Marx và nhìn sang tư tưởng của Phương Tây để tìm câu trả lời cho những vấn
đề của Trung Quốc. Có thời là người bảo vệ kiêu hãnh cho chính sách chính thức,
tôi bắt đầu biện hộ cho tự do hóa. Có thời là đảng viên trung kiên của ĐCSTQ,
tôi đã bí mật nghi ngờ sự trung thực trong niềm tin của đảng và mối quan tâm của
đảng đối với nhân dân Trung Quốc.
Vì
thế tôi không nên ngạc nhiên khi hóa ra Tập không phải là nhà cải cách. Trong
suốt nhiệm kỳ của ông ta, chế độ đã thoái hóa hơn nữa vào một chế độ quả đầu
chính trị chỉ cốt duy trì quyền lực thông qua sự tàn bạo và nhẫn tâm. Chế độ đã
trở nên ngày càng đàn áp và độc tài. Một sự sùng bái cá nhân bao quanh Tập, người
đã siết chặt quyền kiểm soát đảng về ý thức hệ và xóa bỏ chút không gian còn lại
dành cho phát ngôn chính trị và xã hội dân sự. Những người không sống ở Trung
Quốc lục địa trong tám năm qua khó có thể hiểu được chế độ đó đã trở nên tàn bạo
như thế nào, đã gây ra bao nhiêu bi kịch thầm lặng. Sau khi lên tiếng chống lại
hệ thống, tôi biết tôi không còn an toàn khi sống ở Trung Quốc.
Giáo dục một người Cộng sản
Tôi
sinh ra trong một gia đình quân đội Cộng sản. Năm 1928, khi cuộc nội chiến
Trung Quốc bắt đầu, ông ngoại tôi gia nhập cuộc khởi nghĩa nông dân do Mao Trạch
Đông (Mao Zedong) dẫn dắt. Khi đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng tạm gác thù địch
trong thời Thế Chiến thứ Hai, cha mẹ tôi và phần lớn gia đình bên ngoại tôi chiến
đấu chống quân xâm lược Nhật Bản trong đoàn quân do đảng Cộng sản lãnh đạo.
Sau
chiến thắng của đảng Cộng sản năm 1949, cuộc sống thật tốt đẹp cho một gia đình
cách mạng như gia đình tôi. Cha tôi chỉ huy một đơn vị Quân Giải phóng Nhân dân
gần Nam Kinh, còn mẹ tôi quản lý một văn phòng trong chính quyền thành phố đó.
Cha mẹ tôi cấm hai chị tôi và tôi lợi dụng các đặc quyền của cơ quan họ, để
chúng tôi không trở thành “các cô chiêu tư sản hư hỏng”. Chúng tôi không thể đi
lại bằng chiếc xe hơi công vụ của cha tôi và các cận vệ của ông không bao giờ
làm những việc vặt trong gia đình tôi. Tuy vậy, tôi được hưởng lợi từ vị thế của
cha mẹ tôi và không bao giờ phải chịu đựng nỗi thống khổ mà rất nhiều người
Trung Quốc phải chịu trong những năm tháng thời Mao. Tôi không biết gì về hàng
chục triệu người bị chết đói trong thời kỳ Đại Nhảy Vọt.
Tất
cả những gì tôi nhìn thấy là tương lai tươi sáng của chủ nghĩa xã hội. Tủ sách
của gia đình tôi đầy những trước tác Marxist, chẳng hạn như Tuyển tập
Stalin và Cán bộ cần đọc. Khi còn là thiếu niên tôi dùng
những cuốn sách này làm sách đọc thêm ngoại khóa. Mỗi khi giở những trang sách ấy
ra, lòng tôi tràn đầy niềm kính phục. Cho dù tôi không nắm được tính phức tạp
trong các lập luận của sách, sứ mệnh của tôi thật rõ ràng: Tôi phải yêu tổ quốc
mình, thừa kế sự nghiệp cách mạng của cha mẹ tôi và xây dựng một xã hội cộng sản
chủ nghĩa không còn người bóc lột người. Tôi là một tín đồ thật sự.
Tôi
có được sự hiểu biết tinh tế hơn về tư tưởng cộng sản sau khi gia nhập Quân Giải
phóng Nhân dân năm 1969, ở tuổi 17. Cuộc Cách mạng Văn hóa đang lên cao trào,
Mao đòi hỏi mọi người phải đọc sáu cuốn sách của Karl Marx và Friedrich Engels,
kể cả Tuyên ngôn Cộng sản. Một đoạn văn không thực tế trong cuốn
tuyên ngôn đó đã để lại ấn tượng lâu dài trong tôi: “Thay cho xã hội tư
sản kiểu cũ với những giai cấp và hận thù giai cấp chúng ta sẽ có một xã hội mới,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người”. Mặc dù vào thời điểm đó tôi không thật sự hiểu rõ
quan niệm về tự do, những lời nói ấy in sâu vào đầu óc của tôi.
Quân
Giải phóng Nhân dân cử tôi về một trường y khoa quân đội. Công việc của tôi là quản
lý thư viện của trường, trong đó có nhiều bản dịch tiếng Trung Quốc các tác phẩm
“phản động”, phần lớn là văn chương và triết học chính trị Tây Phương. Nổi bật
nhờ đóng bìa màu xám, những cuốn sách này chỉ dành riêng cho người trong cuộc của
chế độ với mục đích giúp họ làm quen với những đối thủ ý thức hệ của Trung Quốc,
nhưng tôi cũng bí mật đọc được. Tôi có ấn tượng nhất với cuống Thăng trầm
của Đế chế Thứ Ba của nhà báo Mỹ William Shirer và tuyển tập các truyện
ngắn Xô Viết. Tôi nhận ra rằng có một thế giới ý tưởng bên ngoài những cuốn
sách kinh điển Marxist. Nhưng tôi vẫn tin chủ nghĩa Marx là chân lý duy nhất.
Tôi
rời quân đội năm 1978 và có được việc làm trong công đoàn do đảng điều hành tại
một nhà máy sản xuất phân bón ở ngoại ô thành phố Tô Châu. Khi ấy, Mao đã chết
và Cách mạng Văn hóa đã kết thúc. Người kế vị ông ta, Đặng Tiểu Bình (Deng
Xiaoping) mở ra một giai đoạn cải cách và mở cửa, và trong một phần của nỗ lực
này, ông ta chiêu mộ một thế hệ mới những cán bộ có đầu óc cải cách có thể điều
hành đảng trong tương lai. Mỗi tổ chức đảng địa phương phải chọn ra một vài đảng
viên để phục vụ trong nhóm này, và tổ chức đảng thành phố Tô Châu đã chọn tôi.
Tôi được cử theo học chương trình hai năm tại Trường Đảng thành phố Tô Châu,
nơi tôi và các bạn cùng lớp nghiên cứu học thuyết Marx và lịch sử ĐCSTQ. Chúng
tôi cũng được học chút ít về văn chương cổ điển Trung Quốc, môn học mà chúng
tôi đã bị lỡ do giáo dục bị gián đoạn trong thời Cách mạng Văn hóa.
Tôi
đã nghiền ngẫm cuốn Tư Bản Luận hai lần, đã học được những chỗ
đúng và chỗ sai của học thuyết Marx. Điều hấp dẫn tôi nhất là những ý tưởng của
Marx về lao động và giá trị - nói đúng ra, đó là việc nhà tư bản tích lũy của cải
bằng cách lợi dụng người lao động. Tôi cũng ấn tượng với cách tiếp cận triết học
của Marx, chủ nghĩa duy vật biện chứng, cho phép ông nhìn nhận các hệ thống
chính trị, pháp lý, văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên
nền tảng của sự bóc lột kinh tế.
Khi
tôi tốt nghiệp năm 1986, tôi được giữ lại trường làm giảng viên, lúc ấy trường
đang thiếu người dạy. Tôi nhận lời, và làm cho một số nhà lãnh đạo thành phố tức
giận vì họ nghĩ tôi sẽ có một tương lai hứa hẹn hơn nếu làm cán bộ đảng. Thay
vì vậy, công việc mới đã khởi động sự nghiệp của tôi như là một nhà nghiên cứu
trong hệ thống truyền bá ý thức hệ của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Từ sinh viên trở thành thầy giáo
Trên
đỉnh cao của hệ thống truyền bá đó là Trường Đảng trung ương ở Bắc Kinh. Từ năm
1933, trường này đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ cấp cao nhất của ĐCSTQ, những
người điều hành guồng máy quan lại Trung Quốc từ cấp thành phố trở lên. Trường
có quan hệ mật thiết với giới tinh hoa trong đảng và luôn được một ủy viên Bộ
Chính Trị phụ trách. (Chủ tịch của trường từ 2007 đến 2012 không ai khác hơn là
Tập Cận Bình).
Tháng
Sáu năm 1989, chính phủ đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ ở Quảng trường
Thiên An Môn, giết chết hàng trăm người. Trong thâm tâm, tôi kinh hoàng khi thấy
Quân Giải phóng Nhân dân nổ súng vào các sinh viên đại học; điều đó trái với lời
dạy tôi học được từ bé rằng quân đội bảo vệ nhân dân, chỉ có “bọn quỷ Nhật” và
bọn phản động Quốc Dân Đảng mới giết dân.
Kinh
hoàng với cuộc phản kháng, cùng sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, giới
lãnh đạo chóp bu đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định phải chống lại sự lỏng lẻo
về ý thức hệ. Đảng ra lệnh cho các trường đảng địa phương phải cử một số giảng
viên lên Trường Đảng Trung ương để chỉnh đốn về tư tưởng. Trường tôi dạy ở Tô
Châu chọn tôi. Thời gian ngắn ngủi ở Trường Đảng Trung ương lại làm tôi muốn học
tập ở đó lâu hơn nữa. Sau một năm chuẩn bị thi tuyển, tôi được nhận vào chương
trình thạc sĩ ở khoa lý luận của trường. Thế là tôi đã hiến dâng cho đường lối
của đảng Cộng sản tới mức mà sau lưng tôi, các bạn học gọi tôi là “Mụ
Marx Già”. Năm 1998, tôi nhận bằng tiến sĩ và gia nhập đội ngũ giảng viên của
trường.
Một
số học trò của tôi là sinh viên cao học bình thường, những người đang giảng dạy
học thuyết chính trị Marxist và lịch sử đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng những
người khác là cán bộ đảng trung - cao cấp; kể cả lãnh đạo chính quyền các tỉnh,
thành phố và các bộ trưởng trong chính phủ. Vài học viên của tôi là ủy viên Ủy
ban Trung ương đảng Cộng sản, cơ quan có chừng vài trăm đại biểu ngồi trên đỉnh
quyền lực của đảng và phê chuẩn các quyết định quan trọng.
Dạy ở
Trường Đảng Trung ương không phải là việc dễ. Máy quay video trong các phòng học
ghi lại bài giảng của chúng tôi để cấp trên xem lại. Chúng tôi phải làm cho môn
học trở nên sinh động, không được diễn giải học thuyết quá linh hoạt hoặc lôi
kéo sự chú ý vào các điểm yếu của học thuyết. Thường thường, chúng tôi phải
nghĩ ra những câu trả lời khôn ngoan cho những câu hỏi khó mà các quan chức-học
viên trong lớp đặt ra.
Đa số
những câu hỏi của họ xoay quanh những mâu thuẫn khó hiểu trong ý thức hệ chính
thống, vốn được soạn thảo để biện minh cho các chính sách mà đảng Cộng sản
Trung Quốc thực hiện trong thực tiễn. Một sửa đổi bổ sung vào hiến pháp Trung
Quốc năm 2004 nói rằng, chính phủ bảo vệ nhân quyền và quyền tư hữu. Nhưng thế
thì quan điểm của Marx rằng hệ thống cộng sản chủ nghĩa bãi bỏ quyền sở hữu tư
nhân sẽ thế nào? Đặng muốn “cho phép một bộ phận dân chúng giàu lên trước” để động
viện nhân dân và kích thích năng suất. Điều đó làm sao phù hợp với lời hứa của
Marx rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ cung cấp cho mỗi người tùy theo nhu cầu?
Tôi
vẫn trung thành với đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng thôi thường xuyên nghi vấn
niềm tin của chính mình. Trong thập niên 1980, giới học thuật Trung Quốc đã có
cuộc tranh luận sinh động về “Chủ nghĩa nhân đạo Marxist” - một
dòng tư tưởng Marxist nhấn mạnh vào sự phát triển toàn diện của cá nhân con người.
Vài học giả tiếp tục cuộc tranh luận đó trong thập niên 1990 dù quy mô của sự
thảo luận có thể chấp nhận được đã bị thu hẹp. Tôi nghiên cứu Bản thảo
Kinh tế và Triết học năm 1844 của Marx, trong đó nói mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội là giải phóng cá nhân. Tôi tán thành các nhà triết học Marxist nhấn
mạnh vào tự do - nổi bật nhất là Antonio Gramsci và Herbert Marcuse.
Ngay
từ luận án thạc sĩ, tôi đã phê phán ý tưởng con người luôn luôn nên hy sinh quyền
lợi cá nhân để phục vụ đảng. Trong luận văn tiến sĩ, tôi thách thức câu khẩu hiệu
cổ Trung Quốc “quốc phú binh cường” bằng lập luận rằng Trung
Quốc chỉ có thể hùng mạnh nếu đảng cho phép công dân được giàu có. Giờ đây tôi
đưa lập luận này lên một bước xa hơn. Trong các bài nghiên cứu và trò chuyện,
tôi cho rằng doanh nghiệp nhà nước đã thống trị quá đáng nền kinh tế Trung Quốc,
và cần cải cách sâu rộng hơn nữa để cho phép các công ty tư nhân cạnh tranh. Tôi
nhấn mạnh, không nên coi tham nhũng chỉ là sự thất bại về đạo đức của cá nhân
cán bộ mà phải là vấn đề có tính hệ thống sinh ra từ sự quản lý chặt của chính
phủ đối với nền kinh tế.
Lý thuyết và thực tiễn
Suy
nghĩ của tôi có vẻ như phù hợp một phần với suy nghĩ của người kế vị ông Đặng,
ông Giang Trạch Dân (Jiang Zemin). Quyết tâm phát triển kinh tế Trung Quốc, ông
Giang đã tìm cách kích thích doanh nghiệp tư nhân và đưa Trung Quốc vào Tổ chức
Thương mại thế giới. Nhưng những chính sách này mâu thuẫn với học thuyết thâm
căn cố đế của đảng Cộng sản Trung Quốc coi trọng nền kinh tế kế hoạch hóa và sự
tự túc quốc gia. Bởi vì học thuyết của Marx, của Mao hoặc của Đặng đều không giải
quyết được những mâu thuẫn này, Giang cảm thấy cần thiết phải đưa ra một cái gì
đó mới mẻ. Ông ta gọi đó là thuyết “Ba Đại Diện”.
Tôi
được nghe về học thuyết mới này lần đầu là cùng với mọi người. Buổi tối ngày 25
tháng Hai năm 2000, tôi xem Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) tường
thuật về thuyết Ba Đại Diện. Ông Giang nói, đảng phải đại diện cho ba phương diện
của Trung Quốc: “những yêu cầu phát triển của các lực lượng sản xuất tiên tiến”,
tiến bộ văn hóa và quyền lợi của đa số. Là giáo sư Trường Đảng Trung ương, tôi
lập tức hiểu rằng học thuyết này báo hiệu một sự chuyển dịch quan trọng trong ý
thức hệ của ĐCSTQ. Đặc biệt, điểm thứ nhất trong Ba Đại Diện ám chỉ rằng Giang
đang từ bỏ tín điều cốt lõi của chủ nghĩa Marx rằng các nhà tư bản là một nhóm
xã hội bóc lột. Thay vì vậy, Giang mở cửa đảng cho hàng ngũ của họ - một quyết
định mà tôi tán thành.
Ban
Tuyên Giáo Trung ương, cơ quan phụ trách công tác tư tưởng của ĐCSTQ, chịu
trách nhiệm quảng bá học thuyết mới của Giang, nhưng họ có một vấn đề: Học thuyết
Ba Đại Diện đang bị giới cực hữu tấn công. Giới này nghĩ rằng Giang đã đi quá
xa trong việc dụ dỗ giới doanh nhân. Hy vọng né tránh cuộc xung đột này, Ban
Tuyên Giáo chọn cách làm nhẹ đi lý thuyết Ba Đại Diện. Tờ Nhân Dân nhật
báo đăng một bài dài nguyên trang chứng minh tính đúng đắn của thuyết
Ba Đại Diện với nhiều trích dẫn tham khảo từ các văn bản của Marx, Engels,
Lenin, Stalin, Mao và Đặng.
Tôi
thấy làm như vậy không thuyết phục. Mục đích của thuyết Ba Đại Diện là gì nếu
nó chỉ nhắc lại hệ tư tưởng sẵn có? Tôi khinh ghét cách làm thiển cận của guồng
máy tuyên truyền của đảng. Tôi quyết tâm trình bày ý nghĩa thật sự của thuyết
Ba Đại Diện, một học thuyết mà trong thực tế đã đánh dấu một sự khởi đầu can đảm
cho Trung Quốc. Chuyện này hóa ra lại đưa tôi vào cuộc xung đột với guồng máy
quan liêu thâm căn cố đế của ĐCSTQ.
Giới tinh hoa vô học
Cơ hội
cho tôi quảng bá sự hiểu biết đúng đắn về thuyết Ba Đại Diện đến vào năm 2001,
khi Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), sau khi nghe một đồng nghiệp
nói rằng tôi quan tâm đặc biệt tới học thuyết mới của Giang, đã mời tôi viết kịch
bản một chương trình truyền hình về học thuyết đó. Tôi bỏ ra sáu tháng nghiên cứu
và viết kịch bản phim tài liệu; tôi thảo luận rất kỹ với các nhà sản xuất ở mạng
lưới truyền hình. Kịch bản của tôi nhấn mạnh vào nhu cầu phải có những chính
sách canh tân mới để đáp ứng những thách thức của một thời đại mới: Tôi nhấn mạnh
vào điều mà ông Giang nhấn mạnh: đó là, giờ đây chính phủ sẽ phải giảm can thiệp
vào nền kinh tế và vai trò của đảng không còn là làm cuộc cách mạng bạo lực chống
lại giai cấp tư sản bóc lột - thay vì vậy đảng phải khuyến khích việc tạo ra của
cải và cân bằng lợi ích của các thành phần khác nhau trong xã hội.
Vào
buổi chiều ngày 16 tháng Sáu, bốn phó chủ tịch cấp cao của CCTV họp trong một
phòng thu tại đại bản doanh của mạng truyền hình để xem xét ba tập phim mỗi tập
30 phút. Khi họ xem phim, mặt họ tối sầm lại: “Dừng ở đây,” một người trong bọn
họ nói khi tập phim thứ nhất kết thúc.
“Giáo sư
Thái, bà có biết tại sao bà được mời sản xuất một chương trình về thuyết Ba Đại
Diện không?” ông
ta hỏi. “Đảng đang đưa ra một học thuyết tư tưởng mới, và chúng ta cần
quảng bá nó”, tôi đáp. Quan chức này không nao núng. “Nghiên cứu và
canh tân của bà có thể được trình bày ở Trường Đảng Trung ương, nhưng truyền
hình chỉ trình chiếu những nội dung an toàn nhất,” ông ta nói. Tại thời
điểm đó, không ai biết chắc chắn học thuyết Ba Đại Diện cuối cùng có nghĩa là
gì, và ông ta lo ngại rằng kịch bản của tôi có thể lạc điệu với quan điểm của
Ban Tuyên Giáo. “Nếu có bất kỳ sự khác biệt nào thì hậu quả sẽ hết sức
lớn,” ông ta nói.
Một
quan chức điều hành khác của Đài chen vào. “Năm nay là kỷ niệm 80 năm
thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc!” ông ta kêu lên. Một dịp kỷ niệm
như vậy cần ca tụng những chiến thắng hào hùng của đảng chứ không phải là thảo
luận về những thách thức mà đảng đang đối mặt. Vào lúc ấy, tôi chợt hiểu. Những
quan chức của CCTV không quan tâm tới ý nghĩa thật sự của ý thức hệ. Họ chỉ muốn
làm cho đảng có vẻ tốt đẹp và lấy lòng cấp trên của họ.
Trong
mười ngày tiếp theo đó, chúng tôi mò mẫm sửa lại phim tài liệu. Chúng tôi cắt bỏ
những từ ngữ, câu cú có khả năng gây phản ứng; chúng tôi làm việc cả ngày lẫn
đêm trong lúc kịch bản của tôi phải trải qua vài cuộc thẩm định về chính trị,
do các nhóm từ khắp guồng máy đảng thực hiện. Cuối cùng, khoảng một tá quan chức
đến dự buổi thẩm định cuối cùng, trong đó tôi được biết nhiều hơn về tính chất
đạo đức giả của đảng. Tại một điểm, một thành viên cao cấp của ủy ban thẩm định
phát biểu ý kiến. Trong tập phim thứ hai của bộ phim tài liệu, tôi có trích dẫn
hai câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình vốn thường được liên kết với nhau: “Nghèo
đói không phải là chủ nghĩa xã hội; phát triển là một sự thật khó khăn”.
“Nghèo đói
không phải là chủ nghĩa xã hội à?” vị quan chức nêu câu hỏi một cách hồ
nghi. “Thế thì chủ nghĩa xã hội là gì?” Ông ta tiếp tục phê
phán, càng lúc càng lớn tiếng. “Và phát triển là sự thật khó khăn à?
Hai câu này liên quan với nhau thế nào? Nói tôi biết xem!”
Tôi
chết điếng vì kinh ngạc. Đây là lời chính xác của Đặng, còn quan chức cao cấp
này - lãnh đạo Cục Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình Nhà nước, cơ quan có quyền
giám sát tất cả các phương tiện truyền thông - lại không biết tới ư? Tôi lập tức
nghĩ tới lời phê phán của Mao đối với guồng máy quan liêu thời Cách mạng Văn
hóa: “Họ không đọc sách, và họ cũng không đọc báo.”
Hệ tư tưởng trống rỗng
Trong
suốt năm 2001, một phần trong nỗ lực quảng bá học thuyết độc đáo của Giang, Ban
Tuyên Giáo bắt đầu biên soạn một bản đề cương nghiên cứu thuyết Ba Đại Diện - một
bản tóm tắt sẽ được phát hành như là một tài liệu của Ban Chấp hành Trung ương
mà toàn đảng phải đọc và thực hiện. Có lẽ vì tôi đã làm chương trình trên CCTV
và đã đọc tham luận về thuyết Ba Đại Diện tại một hội nghị khoa học, họ yêu cầu
tôi giúp.
Cùng
với một học giả khác và 19 quan chức tuyên giáo, tôi được gửi tới trung tâm huấn
luyện của Ban Tuyên Giáo trong vùng bán sơn địa phía tây Bắc Kinh. Ban đã vạch
ra một dàn ý tổng quát của bản đề cương và bây giờ họ yêu cầu chúng tôi lấp nội
dung vào cái dàn ý đó. Nhiệm vụ của tôi là biên soạn phần về xây dựng đảng.
Soạn
thảo tài liệu cho Ban Chấp hành Trung ương là một công việc có độ bí mật cao.
Các đồng nghiệp của tôi và tôi bị cấm rời khỏi khu nhà, và cũng không được tiếp
khách. Khi Ban Tuyên Giáo triệu tập cuộc họp thì những ai không được mời sẽ
không được hỏi về cuộc họp đó. Chúng tôi, những người soạn thảo, được ăn ở và
đi dạo cùng nhau nhưng bị cấm thảo luận về công việc của từng người. Tôi là phụ
nữ duy nhất trong nhóm. Trong bữa ăn tối đàm đàn ông tán gẫu và kể chuyện tiếu
lâm. Tôi thấy những cuộc trò chuyện có hơi men và nhạt nhẽo đó thật dung tục và
luôn bỏ ra ngoài chỉ sau khi ăn vài đũa. Cuối cùng, một người khác trong nhóm
kéo tôi ra ngoài. Anh ta giải thích, nói chuyện về công việc chính thức chỉ làm
chúng tôi gặp rắc rối, cho nên chỉ nói chuyện về tình dục sẽ an toàn hơn, vui vẻ
hơn.
Giúp
soạn đề cương nghiên cứu là nhiệm vụ viết lách quan trọng nhất trong đời tôi
nhưng đó cũng là công việc nhố nhăng nhất. Công việc của tôi là đọc hàng đống
tài liệu ghi lại những ý nghĩ của Giang Trạch Dân, kể cả những bài phát biểu mật
và những văn bản chỉ lưu hành nội bộ. Sau đó tôi sẽ rút ra những trích dẫn phù
hợp và đặt chúng vào nhiều đề mục nhỏ và ghi nguồn. Tôi không thể thêm bớt văn
bản, nhưng tôi có thể đổi dấu chấm thành dấu phẩy và nối kết câu trích này với
câu trích kia. Tôi ngạc nhiên thấy lời giải thích chính thức cho một trong những
chiến dịch ý thức hệ quan trọng nhất của đảng thời kỳ hậu Mao Trạch Đông chỉ là
công việc cắt dán.
Bởi
vì nhiệm vụ quá dễ dàng, tôi dùng nhiều thời gian chờ đợi trong nỗi chán chường
chờ công việc của tôi được xem xét. Một hôm tôi hỏi một thành viên khác, một
giáo sư từ Đại học Nhân dân Trung Quốc: “Có phải chúng ta chỉ đang tạo
ra một phiên bản khác của Mao Trạch Đông ngữ lục?” tôi muốn nói tới cuốn
Sách Đỏ Nhỏ - cuốn sách bỏ túi ghi những câu châm ngôn của Mao bị rút ra khỏi
văn cảnh của chúng, được lưu hành trong suốt thời Cách mạng Văn hóa. Ông giáo
sư nhìn quanh và bật cười gượng gạo. “Đừng lo. Chúng mình đang ở một
nơi cảnh sắc tuyệt vời, thức ăn ngon và những chuyến đi dạo thú vị. Chúng mình
biết tìm đâu một kỳ nghỉ dưỡng thoải mái thế này? Hãy tìm một cuốn sách mà đọc.
Vấn đề chỉ là mình có mặt ở đây mỗi khi họ gọi mình đi họp,” ông ta bảo
tôi.
Tháng
Sáu năm 2003 một hội nghị báo chí được tổ chức tại Đại sảnh đường Nhân dân ở Bắc
Kinh để công bố đề cương nghiên cứu và tất cả chúng tôi, những người đã góp phần
soạn thảo nó, đều được yêu cầu tham dự. Ông Lưu Vân Sơn (Liu Yunshan), ủy viên
Bộ Chính Trị và lãnh đạo Ban Tuyên Giáo, trình bày báo cáo. Lúc ông ấy và các
quan chức khác ngồi trên sân khấu, tôi cảm thấy một cảm giác nặng nề. Hiểu biết
của tôi về thuyết Ba Đại Diện như là một bước ngoặt quan trọng trong ý thức hệ
của đảng cầm quyền đã hoàn toàn bị loại ra khỏi tài liệu và bị thay bằng một thứ
gì đó nhạt nhẽo, vô vị. Nhớ lại những cuộc tán gẫu dâm đãng quanh bàn ăn tối mỗi
đêm, lần đầu tiên tôi cảm nhận rằng cái hệ thống mà từ lâu tôi coi là thiêng
liêng thực ra đã phi lý không thể chịu đựng nổi.
Ý tưởng để bán
Kinh
nghiệm của tôi về bản đề cương nghiên cứu dạy cho tôi rằng những ý tưởng mà đảng
hô hào quảng bá một cách khoa trương thực ra chỉ là những công cụ dùng để lừa bịp
nhân dân Trung Quốc. Chẳng bao lâu sau tôi hiểu ra rằng chúng cũng là một cách
thức để làm tiền. Một quan chức mà tôi biết ở Tổng cục Báo chí và Xuất bản, cơ
quan kiểm soát quyền xuất bản sách và tạp chí, kể tôi nghe một câu chuyện đáng
buồn về cuộc tranh giành doanh thu xuất bản trong nội bộ ĐCSTQ.
Trong
nhiều năm, nhà xuất bản Hồng Kỳ là một trong ba tổ chức chịu trách nhiệm xuất bản
sách giáo dục của đảng. Năm 2005, nhà xuất bản đang chuẩn bị đưa ra một cuốn
sách thông thường thì một quan chức của Ban Tổ chức Trung ương, cơ quan đầy quyền
lực chịu trách nhiệm về các quyết định nhân sự của ĐCSTQ, nhảy vào và nhấn mạnh
rằng chỉ có ban của ông ta mới có thẩm quyền xuất bản một cuốn sách như vậy.
Ông ta cố buộc Tổng cục Báo chí và Xuất bản ngăn cản việc xuất bản cuốn sách
đó. Nhưng nhiệm vụ chính của nhà xuất bản Hồng Kỳ chính là xuất bản sách về ý
thức hệ. Để thoát ra khỏi cuộc tranh giành rối rắm này, Tổng cục đã xem xét cuốn
sách với hy vọng sẽ tìm ra những vấn đề có thể biện minh cho việc cấm xuất bản
- nhưng thật khó xử, họ đã không tìm được gì.
Tại
sao Ban Tổ chức xen vào việc xuất bản sách? Tất cả chỉ vì tiền. Nhiều ban ngành
có những quỹ đen, dùng cho việc thụ hưởng xa hoa của các quan chức cao cấp và
chia cho nhân viên như là “phụ cấp phúc lợi”. Cách dễ dàng nhất để kiếm tiền
cho các quỹ này là xuất bản sách. Vào thời đó, ĐCSTQ có hơn 3,6 triệu tổ chức
cơ sở đảng; dự tính mỗi cơ sở phải mua một bản của cuốn sách mới. Nếu cuốn sách
được bán với giá 10 tệ một bản thì có nghĩa doanh thu bán sách tối thiểu phải
là 36 triệu tệ - tương đương khoảng 5 triệu Mỹ kim hiện nay. Bởi vì tiền mua
sách được lấy từ ngân sách của đảng bộ cơ sở, thực chất của việc mua sách này
là buộc một tổ chức công phải trả tiền cho một tổ chức công khác. Bởi vậy đừng
ngạc nhiên khi thấy mỗi năm Ban Tổ chức lại đề ra một chủ đề giáo dục chính trị
mới. Và đừng ngạc nhiên khi thấy hầu như mọi định chế trong ĐCSTQ đều có bộ phận
xuất bản. Khi mà hầu hết các đơn vị đều phát minh ra những cách thức mới để kiếm
tiền thì tính chất dễ bị hối lộ đã thấm sâu vào chế độ.
Mặc
dù sự vỡ mộng của tôi tăng lên, tôi vẫn không hoàn toàn từ bỏ đảng Cộng sản.
Cùng với nhiều học giả bên trong đảng, tôi vẫn hy vọng ĐCSTQ sẽ chấp nhận cải
cách và đi về hướng một hình thức dân chủ nào đó. Trong những năm cuối của thời
kỳ Giang Trạch Dân, đảng bắt đầu chấp nhận nới lỏng tương đối cuộc thảo luận nội
bộ về những vấn đề nhạy cảm, chừng nào các cuộc thảo luận đó không công khai
cho dân chúng. Tại Trường Đảng Trung ương, các giáo sư đồng đội và tôi cảm thấy
được tự do nêu lên giữa chúng tôi những vấn đề sâu kín trong hệ thống chính trị
Trung Quốc. Chúng tôi nói về tiết giảm vai trò của cán bộ đảng trong việc quyết
định những vấn đề hành chính mà các quan chức chính quyền xử trí tốt hơn. Chúng
tôi thảo luận ý tưởng về tính độc lập của tư pháp, điều đã ghi trong hiến pháp
nhưng không bao giờ thực hiện trong thực tế.
Chúng
tôi vui mừng khi thấy trong thực tế đảng đã thử nghiệm chế độ dân chủ, cả trong
hoạt động của đảng lẫn trong xã hội ở cấp cơ sở. Tôi nhìn tất cả những chuyện
này như là dấu hiệu đầy hy vọng của sự tiến bộ. Nhưng những biến cố sau đó chỉ củng
cố thêm sự vỡ mộng của tôi mà thôi.
Con đường khác
Điểm
thay đổi quyết định xảy ra vào năm 2008 khi tôi có chuyến đi ngắn nhưng có tính
quyết định đến Tây Ban Nha. Thăm viếng đất nước đó là một phần của việc trao đổi
học thuật, tôi đã học được bằng cách nào mà Tây Ban Nha đã chuyển mình từ chế độ
chuyên chế sang chế độ dân chủ sau cái chết của nhà độc tài Francisco Franco
năm 1975. Tôi không thể không so sánh kinh nghiệm Tây Ban Nha với kinh nghiệm
Trung Quốc. Mao chết chỉ sau Franco mười tháng và cả hai nước đều trải qua những
thay đổi to lớn trong ba thập niên sau đó. Nhưng trong khi Tây Ban Nha thực hiện
cú nhảy sang chế độ dân chủ một cách nhanh chóng và hòa bình và đạt được sự ổn
định xã hội lẫn sự thịnh vượng kinh tế thì Trung Quốc chỉ chuyển biến một phần,
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang một nền kinh tế hỗn hợp mà không tự do
hóa chính trị. Tây Ban Nha có thể dạy Trung Quốc điều gì?
ĐCSTQ, giành được quyền lực năm 1949
thông qua bạo lực, đã gắn bó sâu sắc với ý tưởng rằng đảng được độc quyền vĩnh
viễn về quyền lực chính trị. Hồ sơ của đảng, đặc biệt là vụ đàn áp cuộc biểu
tình ở Thiên An Môn, chứng tỏ rằng đảng sẽ không từ bỏ quyền lực một cách hòa
bình.
Tôi
đi đến một kết luận bi quan rằng ĐCSTQ không muốn cải cách chính trị. Thứ nhất
cuộc chuyển hóa của Tây Ban Nha được khởi động bởi các lực lượng cải cách trong
chế độ thời hậu Franco, chẳng hạn như Quốc vương Juan Carlos Đệ Nhất, người đặt
lợi ích quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân. ĐCSTQ, giành được quyền lực năm
1949 thông qua bạo lực, đã gắn bó sâu sắc với ý tưởng rằng đảng được độc quyền
vĩnh viễn về quyền lực chính trị. Hồ sơ của đảng, đặc biệt là vụ đàn áp cuộc biểu
tình ở Thiên An Môn, chứng tỏ rằng đảng sẽ không từ bỏ quyền lực một cách hòa
bình. Và không nhà lãnh đạo nào thời hậu ông Đặng có can đảm thúc đẩy cải cách
chính trị, họ chỉ đơn giản muốn đẩy gánh nặng cho các nhà lãnh đạo tương lai.
Tôi
cũng học được rằng sau cái chết của Franco, Tây Ban Nha nhanh chóng tạo ra một
môi trường thuận lợi cho cải cách, củng cố tính độc lập của tư pháp, mở rộng
quyền tự do báo chí. Tây Ban Nha thậm chí còn kết hợp các lực lượng đối lập vào
tiến trình chuyển tiếp. ĐCSTQ trái lại đã đối xử với những đòi hỏi về công bằng
xã hội và công bằng kinh tế như là những mối đe dọa tới quyền lực của nó, đàn
áp xã hội dân sự và hạn chế quyền tự do của người dân. Chế độ và nhân dân đã
lâm vào tình trạng đối đầu trong nhiều thập niên, làm cho việc hòa giải hòa hợp
là không thể hình dung được.
Hiểu
biết mà tôi mới tiếp thu được về cuộc chuyển hóa dân chủ ở Tây Ban Nha, cùng với
những điều tôi đã biết về chuyển hóa dân chủ ở các nước khối Xô Viết cũ, đã đưa
tôi tới sự từ bỏ về căn bản hệ tư tưởng Marxist mà tôi đã một thời đặt vào đó
niềm tin không thể lay chuyển. Tôi bắt đầu nhận ra rằng những học thuyết mà
Marx thúc đẩy trong thế kỷ mười chín đã bị giới hạn bởi tri thức của ông và
hoàn cảnh lịch sử của thời đại ông. Hơn thế nữa, tôi nhìn thấy phiên bản chủ
nghĩa Marx được tập trung hóa cao độ và đàn áp mà ĐCSTQ quảng bá thì mang nợ của
Stalin hơn là của Marx. Càng ngày tôi càng nhận ra nó như là một hệ tư tưởng được
hình thành để phục vụ cho lợi ích của chế độ độc tài. Tôi bắt đầu nói bóng gió
trong các bài giảng và bài viết của mình rằng không nên tôn thờ chủ nghĩa Marx
như một chân lý tuyệt đối và Trung Quốc nên bắt đầu cuộc hành trình tới thể chế
dân chủ. Năm 2010, khi một số học giả có khuynh hướng tự do xuất bản một tuyển
tập gọi là Tiến tới Chủ nghĩa Hợp hiến, tôi đã đóng góp
một bài bàn về kinh nghiệm Tây Ban Nha.
Tầm
nhìn của tôi - được chia sẻ với các học giả tự do khác - là Trung Quốc phải bắt
đầu thực hiện dân chủ bên trong đảng, mà trong dài hạn, sẽ dẫn tới một chế độ
dân chủ lập hiến. Trung Quốc phải có một nghị viện, thậm chí một đảng đối lập
thực sự. Trong thâm tâm, tôi lo ngại rằng ĐCSTQ sẽ chống lại một cách quyết liệt
một cuộc chuyển hóa kiểu như vậy, nhưng tôi giữ kín ý nghĩ đó cho riêng mình.
Thay vào đó, khi nói chuyện với các đồng nghiệp và sinh viên, tôi chỉ lập luận
rằng một cuộc chuyển hóa như vậy sẽ là tốt cho Trung Quốc, thậm chí sẽ tốt cho
chính đảng cộng sản, vì đảng có thể củng cố tính chính danh của mình bằng cách
làm cho đảng có trách nhiệm giải trình với nhân dân hơn. Nhiều quan chức mà tôi
dạy công nhận rằng đảng đang đối mặt với những vấn đề nhưng họ không thể tự
mình nói ra điều đó. Thay vì vận họ thận trọng khuyến khích thôi thuyết phục cấp
trên của họ.
Thất vọng với Tập Cận Bình
Vấn
đề là ngay chính vào thời điểm ấy, người kế vị của Giang, Hồ Cẩm Đào (Hu
Jintao) lại đi theo hướng ngược lại. Năm 2003, trong quá trình thâu tóm quyền lực,
Hồ đã đưa ra lý thuyết “Tầm nhìn Khoa học về Phát triển” thay thế cho thuyết Ba
Đại Diện của Giang. Quan niệm này là một nỗ lực nữa nhằm biện hộ cho mô hình
phát triển hỗn hợp của Trung Quốc với một lớp vỏ mỏng là hệ tư tưởng có âm hưởng
Marxist và né tránh những vấn đề lớn mà Trung Quốc đang đối đầu. Sự phát triển
thần tốc của Trung Quốc đã sản sinh ra mâu thuẫn xã hội như ruộng đất của nông
dân bị tước đoạt cho phát triển và các nhà máy bóc lột công nhân để tăng thêm lợi
nhuận. Số người khiếu nại đòi chính phủ bồi thường gia tăng một cách ngoạn mục,
và trong cả nước số vụ biểu tình cuối cùng đã vượt qua con số 100.000 vụ mỗi
năm. Đối với tôi, sự bất mãn cho thấy rằng Trung Quốc ngày càng khó phát triển
kinh tế mà không tự do hóa chính trị.
Hồ
nghĩ khác. “Đừng làm rối mọi chuyện,” ông ta nói năm 2008 trong buổi
lễ kỷ niệm 30 năm chính sách cải cách và mở cửa. Tôi hiểu câu nói này có nghĩa
là những cải cách về kinh tế, chính trị và ý thức hệ mà đảng đã thực hiện cho tới
đó cần phải được duy trì chứ không thúc đẩy thêm nữa. Hồ đang tự bảo vệ mình chống
lại những lời tố cáo từ cả hai phía: từ những người bảo thủ nghĩ rằng cải cách
đã đi quá xa, và từ những người tự do nghĩ rằng cải cách đã đi không đủ xa. Thế
là Trung Quốc, dưới sự giám sát của ông Hồ, đã đi vào một giai đoạn trì trệ về
chính trị, một cuộc suy thoái tương tự như những gì mà Liên Xô trải qua dưới thời
ông Leonid Brezhnev.
Chính
vì thế, tôi nhìn ông Tập với niềm lạc quan khi đã rõ rằng ông ta sẽ nắm quyền.
Tất cả những cuộc cải cách dễ dàng đã được thực hiện từ 30 năm về trước, bây giờ
là lúc những cải cách khó khăn hơn. Do danh tiếng của thân phụ Tập, một cựu
lãnh đạo ĐCSTQ có khuynh hướng tự do và phong cách linh hoạt mà bản thân Tập thể
hiện trong những chức vụ trước, tôi và những người khác ủng hộ cải cách đã hy vọng
nhà lãnh đạo mới của chúng tôi sẽ có dũng khí thi hành những sự thay đổi táo bạo
cho hệ thống chính trị Trung Quốc. Nhưng không phải ai cũng có niềm tin như vậy
vào Tập. Những người hoài nghi mà tôi biết chia thành hai nhóm. Và cả hai đều
chứng tỏ họ có tầm nhìn tiên tri.
Nhóm
thứ nhất bao gồm các thái tử đảng - là con cái của những nhà sáng lập ĐCSTQ. Tập
là một thái tử đảng, cũng như Bạc Hy Lai (Bo Xilai), nhà lãnh đạo năng động của
đảng bộ Trùng Khánh. Tập và Bạc vươn lên các chức vụ cao ở cấp tỉnh và cấp bộ gần
như cùng một lúc và cả hai đều được kỳ vọng sẽ tham gia cơ quan lãnh đạo cao nhất
của ĐCSTQ - Ban Thường vụ Bộ Chính Trị, và là những ứng viên hàng đầu sẽ lãnh đạo
Trung Quốc. Nhưng Bạc sớm rớt khỏi cuộc tranh quyền lãnh đạo năm 2012 khi ông
ta dính líu vào vụ vợ ông chủ mưu ám sát một doanh nhân người Anh, và các chính
trị gia lão thành của đảng ủng hộ một ông Tập an toàn hơn, kiên định hơn. Những
thái tử đảng mà tôi biết, quen với tính tàn nhẫn của Tập, dự báo rằng cuộc
tranh giành Bạc-Tập sẽ không chấm dứt ở đó. Thật vậy, sau khi Tập nắm được quyền
lực, Bạc bị kết tội tham nhũng, bị tịch thu toàn bộ tài sản và bị kết án tù
chung thân.
Một
nhóm khác những người hoài nghi bao gồm các học giả có uy tín. Hơn một tháng
trước ngày khai mạc Đại hội Đảng lần thứ 18 vào tháng 11 năm 2012, khi Tập sẽ
chính thức được giới thiệu là tân Tổng bí thư ĐCSTQ, tôi có dịp trò chuyện với
một phóng viên kỳ cựu của một tạp chí lớn của Trung Quốc, và một giáo sư hàng đầu
của trường tôi, người đã theo dõi sự nghiệp của Tập trong một thời gian dài.
Hai người này vừa kết thúc một buổi phỏng vấn, và trước khi chia tay, người
phóng viên ném ra một câu hỏi cuối: “Tôi nghe nói Tập Cận Bình sống
trong khu gia cư của Trường Đảng Trung ương một thời gian. Nay ông ta sắp trở
thành tổng bí thư của đảng. Giáo sư nghĩ sao về ông ta?” Đôi môi của vị
giáo sư nhíu lại và ông nói với vẻ khinh miệt rằng Tập đau khổ vì “kiến
thức không đầy đủ”. Người phóng viên và tôi giật mình với lời đánh giá thẳng
thừng đó.
Bất
chấp những quan điểm tiêu cực như vậy, tôi vẫn tự nguyện gạt sang một bên sự bất
tín và đặt hy vọng vào ông Tập. Nhưng chẳng bao lâu sau cuộc nổi lên của Tập,
tôi bắt đầu có những nỗi nghi ngờ của chính mình. Một bài diễn văn mà ông ta đọc
vào tháng 12 năm 2012 cho thấy một nhà cải cách và một tinh thần tiến bộ, nhưng
những tuyên bố khác lại ám chỉ một cuộc đi giật lùi về thời trước cải cách. Ông
Tập đang đi về cánh tả hay cánh hữu? Tôi mới vừa nghỉ hưu khỏi Trường Đảng
Trung ương, nhưng vẫn giữ liên lạc với các đồng nghiệp cũ. Có lần khi tôi trò
chuyện với vài người trong bọn họ về các kế hoạch của Tập, một người trong bọn
nói: “Vấn đề không phải là Tập đi theo hướng tả hay hữu mà là ở chỗ ông
ta thiếu óc phán đoán căn bản và nói năng phi logic”. Mọi người rơi vào im
lặng. Tôi lạnh cả sống lưng. Với những khiếm khuyết như thế, làm sao chúng tôi
có thể kỳ vọng ông ta sẽ dẫn dắt cuộc chiến đấu để cải cách chính trị?
Chẳng
bao lâu sau tôi đi đến kết luận là chúng tôi không nên kỳ vọng. Sau khi ông Tập
công bố kế hoạch cải cách toàn diện cuối năm 2013, giới kinh doanh và học thuật
thích thú dự đoán rằng ông ta sẽ thúc đẩy các cuộc cải cách lớn. Tôi có cảm
giác trái ngược hẳn. Kế hoạch đã né tránh tất cả những vấn đề cốt yếu của cải
cách chính trị. Những vấn đề lâu đời của Trung Quốc về tham nhũng, nợ công quá
cao, và các doanh nghiệp nhà nước không có lợi nhuận đã bén rễ từ lâu trong quyền
lực chính thức của đảng được can thiệp vào các quyết định kinh tế mà không có sự
giám sát của công chúng. Cố gắng tự do hóa nền kinh tế trong lúc siết chặt quyền
kiểm soát chính trị là một mâu thuẫn. Tuy nhiên Tập đang phát động một chiến dịch
tư tưởng lớn nhất kể từ sau cái chết của Mao để làm sống lại sự cai trị theo chủ
nghĩa Mao. Kế hoạch của ông ta kêu gọi tăng cường giám sát xã hội và dập tắt tự
do biểu đạt. Một lệnh cấm mọi cuộc thảo luận về chế độ dân chủ hợp hiến và những
giá trị phổ quát đã được quảng bá một cách trơ trẽn dưới danh nghĩa “quản trị,
quản lý, dịch vụ và luật pháp”.
Xu
hướng này tiếp tục với một gói các cải cách luật pháp được thông qua năm 2014,
phơi bày đầy đủ hơn nữa ý định của đảng sử dụng luật pháp làm công cụ để duy
trì sự cai trị của chế độ toàn trị. Vào lúc này, các khuynh hướng ngoan cố của
Tập và sự đàn áp chính trị của ĐCSTQ đã quá rõ ràng. Nếu như có thời tôi có niềm
hy vọng mơ hồ ở Tập và ở đảng thì các ảo mộng của tôi bây giờ đã tan vỡ. Những
biến cố liên tiếp sau đó chỉ khẳng định rằng, khi liên quan tới cải cách thì Tập
đã đưa Trung Quốc từ trì trệ tới suy thoái. Năm 2015, đảng vây bắt hàng trăm luật
sư. Năm sau đó, đảng khởi động một chiến dịch kiểu Cách mạng Văn hóa chống lại
một tỷ phú bất động sản hay nói thẳng. Phản ứng của tôi đối với sự kiện đó đã đẩy
tôi vào vùng nước nóng.
Cọng rơm cuối cùng
Tỷ
phú bất động sản đó, ông Nhậm Chí Cường (Ren Zhiqiang), đã ngày càng xung khắc
với ông Tập, người bị ông phê phán đã kiểm duyệt truyền thông Trung Quốc. Tháng
Hai năm 2016, website ĐCSTQ chụp mũ Nhậm là “chống đảng”. Tôi không biết rõ Nhậm
nhưng trường hợp của ông làm tôi chấn động mạnh bởi vì từ lâu tôi đã dựa vào một
nguyên tắc rằng trong nội bộ ĐCSTQ chúng tôi được phép - thậm chí được khuyến
khích - phát biểu tự do để giúp cho đảng sửa chữa sai lầm. Ông Nhậm là một đảng
viên lâu năm đã bị biến thành quỷ chỉ vì làm đúng như thế. Đã từng sống qua thời
Cách mạng Văn hóa, tôi biết những người bị chụp mũ “chống đảng” sẽ bị tước đoạt
mọi quyền và bị ngược đãi khủng khiếp. Bởi vì lời bào chữa cho Nhậm sẽ không
bao giờ được đăng trên truyền thông bị kiểm duyệt, tôi đã viết một bài biện hộ
và đăng trong một nhóm thảo luận trên mạng WeChat, hy vọng bạn bè của tôi sẽ
chia sẻ nó với các bạn bè của họ. Bài của tôi được phát tán rộng.
Mặc
dù phần lớn bài viết của tôi chỉ trích dẫn hiến pháp và điều lệ của đảng, ủy
ban kỷ luật của Trường Đảng Trung ương đã cáo buộc tôi nhiều lỗi lầm trầm trọng.
Tôi phải đối mặt với hàng loạt cuộc thẩm vấn đầy đe dọa trong đó những người thẩm
vấn tôi sử dụng áp lực tâm lý và đặt ra những chiếc bẫy ngôn từ trong cố gắng
có được lời thú nhận sai lầm về những sai phạm của tôi. Thật hết sức khó chịu
nhưng tôi nhận ra quy trình này là một thử thách tâm lý. Tôi nhận ra rằng nếu
tôi không biểu lộ sợ hãi họ sẽ đánh mất một nửa cuộc chiến. Và thế là một tình
huống bế tắc diễn ra: tôi cứ tiếp tục đăng bài, và chính quyền cứ tiếp tục gọi
tôi đến thẩm vấn. Chẳng bao lâu sau, tôi rút ra rằng các cơ quan an ninh đang
nghe lén điện thoại của tôi, đọc thư tín điện tử của tôi và đi theo tôi để biết
tôi đi đâu, gặp ai. Các giáo sư đã nghỉ hưu của Trường Đảng Trung ương thường
chỉ phải xin phép nhà trường để đi sang Hồng Kông hoặc ra nước ngoài nhưng bây
giờ nhà trường ám chỉ rằng trong tương lai tôi phải báo cáo Bộ Công An để họ
duyệt những chuyến đi như vậy.
Tháng
Tư năm 2016, văn bản của một bài diễn văn mà tôi đã đọc mấy tháng trước tại Đại
học Thanh Hoa (Tsinghua University) trong đó tôi lập luận rằng nếu ý thức hệ vi
phạm vào lẽ phải thông thường thì nó hạ cấp thành lời dối trá - được đăng tải
trên một website có ảnh hưởng ở Hồng Kông. Thời điểm thật tồi tệ: Tập chỉ mới vừa
công bố rằng một số cuộc hỏi đáp tự do diễn ra ở Trường Đảng Trung ương đã đi
quá xa và ông ta thúc giục phải giám sát kỹ hơn các giáo sư của trường. Hậu quả
là, vào đầu tháng Năm, tôi lại bị ủy ban kỷ luật của trường gọi tới và bị tố
cáo là chống lại Tập. Từ đó trở đi ĐCSTQ cấm tôi đăng bài ở tất cả các phương
tiện truyền thông Trung Quốc - báo in, báo mạng, truyền hình. Ngay cả danh tính
của tôi cũng không được xuất bản. Rồi một đêm tháng Bảy tôi lại bị triệu tập tới
một cuộc họp ở Trường Đảng Trung ương, nơi một thành viên của ủy ban kỷ luật đặt
một chồng hồ sơ dày cả gang tay lên bàn trước mặt tôi. “Đã có chừng này
tài liệu về bà,” ông ta nói. “Hãy nghĩ lại đi”. Rõ ràng
tôi đã được cảnh báo phải im lặng, và rằng nếu tôi tiếp tục đăng tải dù chỉ một
chữ, tôi sẽ bị xem xét thi hành kỷ luật, gồm cả việc cắt giảm quyền lợi hưu trí
của tôi. Tôi rất giận cách tôi bị đối xử, dù tôi hiểu rằng những người khác còn
bị đối xử khắc nghiệt hơn nữa.
Trong
tất cả những năm tháng làm đảng viên của ĐCSTQ, tôi chưa bao giờ vi phạm một
quy định nào, chưa từng bị gọi lên khiển trách. Nhưng giờ đây, tôi thường xuyên
bị các cán bộ đảng thẩm vấn. Hội đồng kỷ luật của trường nhiều lần đe dọa cái
viễn cảnh nhục nhã là tôi phải đứng trước một cuộc họp công khai và đông người
và công bố hình phạt chính thức. Vào cuối mỗi cuộc hỏi cung, các thẩm vấn viên
đều yêu cầu tôi giữ bí mật. Tất cả là một phần của cái thế giới ngầm không thể
bị phơi bày dưới ánh sáng mặt trời.
Thế
rồi xảy ra vụ che giấu sự tàn bạo của cảnh sát đã kích hoạt cuộc đoạn tuyệt cuối
cùng của tôi với Tập và đảng. Trước đó, vào tháng Năm năm 2016, Lỗi Dương (Lei
Yang), một nhà khoa học môi trường, đang trên đường ra phi trường đón bà mẹ vợ
thì, trong một tình huống hãy còn mù mờ - anh bị chết trong khi bị cảnh sát Bắc
Kinh giam giữ. Để trốn tránh trách nhiệm gây ra tội ác, cảnh sát đã vu khống Lỗi,
cáo buộc anh gạ gẫm gái mãi dâm. Các bạn học thời đại học của anh tức giận với
âm mưu lăng nhục đó, đã hợp sức lại giúp gia đình anh tìm kiếm công lý; họ khởi
động một chiến dịch vang vọng khắp Trung Quốc. Để dẹp yên cơn giận dữ, các nhà
lãnh đạo chóp bu của ĐCSTQ ra lệnh điều tra. Công tố viện đồng ý tổ chức khám
nghiệm tử thi độc lập và một phiên xét xử được lên kế hoạch để xem xét vụ việc.
Sau
đó xảy ra một việc lạ kỳ: Cha mẹ của Lỗi, vợ và các con anh bị cấm cố tại gia,
và chính quyền địa phương đề nghị với họ một khoản bồi thường lớn, khoảng 1 triệu
Mỹ kim, để họ từ bỏ cuộc mưu cầu sự thật. Khi gia đình của Lỗi từ chối, số tiền
được tăng lên tới 3 triệu Mỹ kim. Ngay cả sau khi 3 triệu Mỹ kim được ném vào
nhà, vợ của Lỗi vẫn đòi hỏi làm sạch thanh danh người chồng quá cố của mình. Thế
rồi chính quyền gây áp lực với cha mẹ của Lỗi, họ phải quỳ trước mặt con dâu và
van xin cô từ bỏ vụ kiện. Vào tháng Mười Hai, công tố viện công bố rằng họ sẽ
không truy tố người nào về cái chết của Lỗi, còn luật sư của gia đình tiết lộ rằng
ông ta bị cưỡng bức phải rút ra khỏi vụ án.
Khi
tôi nghe về kết quả này, tôi ngồi suốt đêm tại bàn làm việc, cố vượt qua nỗi
đau buồn và giận dữ. Cái chết của Lỗi là trường hợp quá rõ ràng về tội phạm
nhưng thay vì trừng trị các sĩ quan cảnh sát chịu trách nhiệm, cấp trên của họ
đã cố dùng những đồng tiền thuế mà người dân chắt chiu kiếm được để dàn xếp vụ
án bên ngoài tòa. Các quan chức bao che cho tội lỗi của nhau hơn là phục vụ người
dân. Tôi tự hỏi mình, Nếu như các quan chức ĐCSTQ có khả năng thực hiện những
hành động bỉ ổi như vậy thì làm thế nào có thể tin tưởng ở đảng? Hơn
hết thảy, tôi tự hỏi làm cách nào mà tôi vẫn là một phần của hệ thống này?
Sau
20 năm lưỡng lự, hoang mang và khổ sở, tôi quyết định bước ra khỏi bóng tối và
làm cuộc đoạn tuyệt hoàn toàn với đảng. Bước đại nhảy vọt thụt lùi của Tập làm
cho tôi không có lựa chọn nào khác. Năm 2018 Tập bãi bỏ các giới hạn nhiệm kỳ của
chức vụ chủ tịch, làm dấy lên kỳ vọng tôi sẽ phải sống mãi dưới sự cai trị của
Stalin kiểu mới. Mùa hè sau đó, tôi có thể đi sang Hoa Kỳ theo thị thực du lịch.
Trong lúc ở Hoa Kỳ, tôi nhận được thông tin từ một người bạn bảo tôi rằng chính
quyền Trung Quốc đang tố cáo tôi có các hành vi “phản đảng”, sẽ bắt giam tôi nếu
tôi trở về. Tôi quyết định kéo dài chuyến thăm viếng của tôi đến khi mọi chuyện
lắng xuống. Thế rồi đại dịch Covid-19 bùng phát và các chuyến bay sang Trung Quốc
bị hủy bỏ, thế là tôi phải chờ đợi lâu hơn. Cũng trong thời gian này, tôi ghê tởm
cách Tập xử lý vụ bùng phát dịch và ký tên vào thỉnh nguyện thư ủng hộ bác sĩ
Lý Văn Lượng (Li Wenliang) người bác sĩ nhãn khoa ở Vũ Hán đã bị cảnh sát quấy
nhiễu vì cảnh báo cho bạn bè về một bệnh dịch mới và cuối cùng đã chết vì dịch
bệnh đó. Tôi nhận những cuộc điện thoại khẩn từ giới chức của Trường Đảng Trung
ương yêu cầu tôi trở về.
Nhưng
bầu không khí ở Trung Quốc ngày càng đen tối. Ông Nhậm, nhà tư bản bất động sản
bất đồng chính kiến, đã biến mất hồi tháng Ba và ngay sau đó bị khai trừ khỏi đảng
và bị kết án 18 năm tù giam. Trong khi đó, vấn đề của tôi với nhà cầm quyền còn
dính tới việc công bố mà không có sự đồng ý của tôi một cuộc trò chuyện riêng
tư trên mạng giữa tôi và một nhóm nhỏ bạn bè trong đó tôi gọi ĐCSTQ là “cái
xác sống chính trị” và nói rằng Tập nên từ chức. Khi tôi gửi cho bạn
bè một bài ngắn mà tôi viết để lên án đạo luật an ninh quốc gia ở Hồng Kông của
Tập, vài người cũng tiết lộ nó.
Tôi
biết mình đang gặp rắc rối. Chẳng bao lâu sau đó tôi bị khai trừ khỏi đảng. Trường
Đảng tước đoạt mọi quyền lợi hưu trí của tôi. Tài khoản ngân hàng của tôi bị
đóng băng. Tôi yêu cầu chính quyền ở Trường Đảng Trung ương bảo đảm an toàn cá
nhân nếu tôi trở về. Các quan chức ở đó tránh trả lời câu hỏi của tôi mà thay
vì vậy họ đưa ra những lời đe dọa mơ hồ tới con gái tôi ở Trung Quốc và đứa con
trai nhỏ của nó. Đến lúc này thì tôi chấp nhận sự thật: không còn đường về nữa.
----------------
Dịch
từ bản tiếng Anh của Stacy Mosher
Foreign
Affairs, số tháng 1 và 2 -2021, The
Party That Failed An Insider Breaks With Beijing Cai Xia (foreignaffairs.com)
No comments:
Post a Comment