Mỹ:
Khi quyền tự do ngôn luận đụng quyền tư hữu, quyền tư hữu thắng
VŨ
QUÍ HẠO NHIÊN - LUẬT KHOA
12/01/2021
https://www.luatkhoa.org/2021/01/my-khi-quyen-tu-do-ngon-luan-dung-quyen-tu-huu-quyen-tu-huu-thang/
Quyền tự do ngôn luận
là một quyền phổ quát, nhưng không phát triển đồng bộ mọi nơi mọi lúc.
Tác
giả Vũ Quí Hạo Nhiên tốt nghiệp Khoa Luật,
Đại học California – Los Angeles (UCLA) và là cựu tổng thư ký tòa soạn một tờ
báo Việt ngữ ở California, Hoa Kỳ. Ông hiện là giáo sư toán tại Coastline
College ở Quận Cam, California.
***
Việc công ty tư nhân
Twitter cấm cửa một người sử dụng là Tổng thống (TT) Donald Trump, về mặt quyền
lợi luật pháp, là xung đột giữa hai quyền hiến định: một bên là quyền sở hữu tư
nhân của Twitter được điều hành tài sản của mình và bên kia là quyền tự do ngôn
luận của TT Trump được nói ở chỗ có người nghe. Khi hai quyền này xung đột
nhau, trong lịch sử tư pháp Hoa Kỳ, thường thì các thẩm phán cấp tiến có khuynh
hướng nghiêng về tự do ngôn luận nhiều hơn, còn các thẩm phán bảo thủ thường
nghiêng về người chủ của món tài sản tư nhân.
Luật hiện thời ở Mỹ là
quyền tự do ngôn luận trong Tu
chính án thứ Nhất không áp dụng cho tư nhân, trừ
vài trường hợp hiếm có. Điều này không lạ. Trong nhiều chục năm nay, phái bảo
thủ nắm đa số thẩm phán Tối cao Pháp viện. Từ 1969 tới nay, hơn nửa thế kỷ, tất
cả các chánh án (chief justice) của Tối cao Pháp viện đều thuộc phái bảo thủ.
Ngay cả vị chánh án cấp tiến trước đó, Earl Warren, cũng do Tổng thống Dwight
Eisenhower Đảng Cộng hòa bổ nhiệm.
Gần đây nhất, năm 2019,
Thẩm phán Tối cao Pháp viện Brett Kavanaugh (do TT Trump bổ nhiệm), tái khẳng định
nguyên tắc rằng một công ty tư nhân – dù là được chính quyền địa phương giao
quyền điều hành một kênh truyền hình cộng đồng – vẫn không phải là chủ thể nhà
nước và không bị ràng buộc theo Tu chính án thứ Nhất.
Bài này giới thiệu lịch sử
phạm vi áp dụng của Tu chính án thứ Nhất, từ lúc khởi đầu rất hẹp, cho tới lúc
lan rộng ra rồi bị thu hẹp bớt lại. Bài này chỉ xét về mặt chủ thể nào thì phải
tuân thủ Tu chính án thứ Nhất mà thôi, không xét về các mặt khác. Cụ thể, bài
này không xét về nội dung của ngôn luận, tức là không xét về mặt ai thì được Tu
chính án thứ Nhất bảo vệ, cũng như không xét về mặt ngôn luận như thế nào thì
được Tu chính án thứ Nhất bảo vệ, và cũng không bàn tới việc nếu như có bị bắt
buộc tuân thủ Tu chính án thứ Nhất thì hành động như thế nào mới bị xem là vi
phạm. Nói cách khác, để bên nguyên có thể chứng minh bên bị vi phạm Tu chính án
thứ Nhất, họ phải chứng minh được:
1.
Bên bị phải tuân thủ Tu
chính án thứ Nhất;
2.
Bên nguyên được Tu chính
án thứ Nhất bảo vệ;
3.
Ngôn luận của bên nguyên
được Tu chính án thứ Nhất bảo vệ; và
4.
Bên bị có hành động mà Tu
chính án thứ Nhất không cho phép.
Bài này chỉ nói về lịch sử
của yếu tố (1), không bàn đến các yếu tố còn lại. Cũng lưu ý là hiến pháp các
bang có thể cho quyền tự do ngôn luận rộng hơn Tu chính án thứ Nhất.
Thuở ban đầu: Chỉ có liên bang
mới phải tôn trọng Tu chính án thứ Nhất
Tu chính án thứ Nhất
không khẳng định quyền tự do ngôn luận, mà là cấm vi phạm quyền tự do ngôn luận,
như sau:
“Congress shall make no law … abridging the freedom
of speech ….”
Dịch: “Quốc Hội sẽ không
ra luật nào … giới hạn tự do ngôn luận.”
Ngoài quyền tự do ngôn luận,
Tu chính án thứ Nhất còn liệt kê các quyền tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do
hội họp, và tự do kiến nghị chính phủ. Bài này chỉ xét riêng về tự do ngôn luận,
nhưng cũng gần như đúng với các quyền kia.
Tu
chính án thứ Nhất trong Hiến pháp Mỹ. Nguồn ảnh:
University of Utah.
Khi Tu chính án thứ Nhất
được thông qua năm 1791 như một phần của Đạo luật Nhân quyền (Bill of Rights), nó chỉ áp dụng cho chính quyền liên bang.
Tu chính án thứ Nhất chỉ giới hạn quyền của Congress – tức là Quốc hội Liên
bang. Mỗi bang của Mỹ cũng có quốc hội riêng và từ “Congress” trong Hiến pháp
Hoa Kỳ được định nghĩa trong Điều I là
quốc hội của cả liên bang. Nói cách khác, Tu chính án thứ Nhất không giới hạn
quyền của các tiểu bang. Nếu tiểu bang nào có vi phạm tự do ngôn luận, phải kiện
theo hiến pháp hay luật bang đó chứ không thể dùng Tu chính án thứ Nhất.
Trong vụ Barron
v. Baltimore (1833), Tối cao Pháp viện thiết lập tiền lệ là toàn bộ
Bill of Rights (gồm Tu chính án thứ Nhất tới Tu chính án thứ Mười) chỉ áp dụng
cho chính quyền liên bang. Barron không liên quan tới tự do
ngôn luận mà là một vụ kiện kinh tế. Barron kiện thành phố Baltimore vì đã làm
mất giá trị kinh tế của cảng sông do Barron làm chủ. Cơ sở vụ kiện là Tu
chính án thứ Năm, nhà nước không được tước quyền tư hữu của người dân mà
không bồi thường. Barron thắng kiện $4.000 nhưng Tối cao Pháp viện lật ngược lại
và thiết lập án lệ rằng toàn bộ Bill of Rights chỉ áp dụng cho chính quyền liên
bang.
Từ đó tới Nội chiến Hoa Kỳ
(1861 – 1865), luật ở Mỹ là Bill of Rights không áp dụng cho chính quyền tiểu
bang và địa phương. Nếu hiến pháp hay luật của bang cho các quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí thì người dân các bang được hưởng những quyền đó, nếu không thì
thôi ráng chịu. Hiến pháp liên bang không bảo vệ gì họ.
Hậu Nội chiến: Tiểu
bang và địa phương cũng phải tôn trọng Tu chính án thứ Nhất
Khi chiến tranh kết thúc,
Hoa Kỳ bước vào giai đoạn tái thiết (Reconstruction).
Hiến pháp Hoa Kỳ được tu chính với Tu
chính án thứ 13, 14, 15,
và vì vậy được gọi chung là Tu chính án Tái thiết (Reconstruction Amendment).
Trong số này, quan trọng nhất ngày nay là Tu chính án thứ 14, cụ thể là điều
khoản “due process”:
[N]or shall any State deprive any person of life,
liberty, or property, without due process of law….
Dịch: “Cũng như không
bang nào được tước đoạt sinh mệnh, tự do hoặc tài sản của một cá nhân mà không
theo quy trình luật định cần thiết.”
Tối cao Pháp viện dùng điều
khoản “due process” này để áp dụng Tu chính án thứ Nhất với các
chính quyền tiểu bang và địa phương. Lập luận tóm tắt là Tu chính án thứ Nhất bảo
đảm quyền tự do ngôn luận, Tu chính án thứ 14 không cho phép các bang tước đoạt
tự do, suy ra, các bang không được vi phạm Tu chính án thứ Nhất.
Lần đầu tiên Tối cao Pháp
viện áp dụng Tu chính án thứ Nhất cho tiểu bang là vụ án Gitlow
v. New York (1925), và oái oăm thay, đương sự sau đó vẫn thua.
Lập luận bảo vệ điều khoản “due process” của Thẩm
phán Edward Sanford trong án lệ Gitlow v. New York (1925). Ảnh: conlaw.us.
Benjamin Gitlow là một đảng
viên đảng Xã hội Mỹ, nhà báo và từng là dân biểu liên bang. Ông bị kết tội tại
tòa tiểu bang vì đã phát tán một tài liệu kêu gọi cách mạng nổi dậy. Gitlow kiện
ra tòa liên bang xin một lệnh tha, với lý do luật của New York vi phạm Tu chính
án thứ Nhất.
Các tòa dưới theo đúng tiền
lệ và bãi nại ngay lập tức vì Tu chính án thứ Nhất không áp dụng cho bang New
York. Tuy nhiên, lúc lên tới Tối cao Pháp viện thì Tối cao Pháp viện quyết định
xử vụ án này và kết luận Tu chính án thứ Nhất có áp dụng cho New York qua trung
gian Tu chính án thứ 14. Nhưng rồi sau đó Tối cao Pháp viện cho rằng New York kết
tội Gitlow là đúng. Nếu dùng bốn điểm tôi ghi ở đầu bài, thì Gitlow thắng khoản
(1), New York là chủ thể phải tuân thủ Tu chính án thứ Nhất, nhưng thua khoản
(3) vì ngôn luận của Gitlow – kêu gọi cách mạng nổi dậy – không được Tu chính
án thứ Nhất bảo vệ. (Điều này đúng với năm 1933, ngày nay có thể không còn đúng
nhưng chuyện đó không nằm trong phạm vi của bài viết này.)
Việc dùng Tu chính án thứ
14 để áp dụng Bill of Rights cho các bang được gọi là “incorporation” và học
thuyết này mang tên “incorporation doctrine.” Từ sau Gitlow, Tu
chính án thứ Nhất bắt đầu được áp dụng cho tất cả các cấp chính quyền từ liên
bang xuống địa phương. Tại sao lại có địa phương trong đó? Vì chính quyền địa
phương chỉ có thẩm quyền qua trung gian tiểu bang, nên nếu tiểu bang bị cấm vi
phạm Tu chính án thứ Nhất thì địa phương cũng bị luôn.
Cá nhân thì sao? Từ
lệ chung xuống thành ngoại lệ
Quyền tự do trong Bill of
Rights tiếp tục được mở rộng bắt đầu từ khoảng giữa thế kỷ 20, nhất là quyền tự
do ngôn luận. Trở lại bốn yếu tố tôi nêu ở đầu bài, cả bốn yếu tố đều ngày càng
mở rộng, nhất là yếu tố (3) và (4). Ngày càng có nhiều loại ngôn luận trước kia
phạm luật nhưng sau này được phép, và ngày càng ít thứ nhà nước được quyền làm
khi giới hạn ngôn luận.
Nhưng về yếu tố (1), khi
đã áp dụng cho tất cả các cấp chính quyền rồi mà mở rộng ra nữa thì đụng tới tư
nhân, mà tư nhân có quyền của tư nhân, và thế là quyền lợi đụng nhau. Quyền của
chủ tài sản – được phép cho hay không cho ai đó tiếp cận – đụng độ với quyền của
người kia muốn được phát ngôn tự do mà không bị hạn chế một cách vô lý.
Khi hai quyền này đụng
nhau, lúc đầu Tối cao Pháp viện ngả về phía ngôn luận trong hai vụ án Marsh
v. Alabama (1946) và Amalgamated
Food Employees Union Local 590 v. Logan Valley Plaza, Inc. (1968).
Vụ Marsh diễn
ra tại thị xã Chickasaw, bang Alabama. Thị xã này hầu hết là tài sản của một
công ty, Gulf Shipbuilding Corporation. Đường xá cầu cống đều là tài sản của
Gulf, cảnh sát của thị xã là do Gulf trả tiền cho cảnh sát trưởng của quận hạt
Mobile đi tuần, chứ thị xã này cũng không có sở cảnh sát.
Grace Marsh là một tín đồ
Nhân chứng Giê-hô-va (Jehovah’s Witness), một giáo phái Kitô bị nhiều giáo phái
ngành chính xem là tà đạo, tới trung tâm thị xã Chickasaw phát tờ rơi cho giáo
phái này. Viên cảnh sát tới đuổi bà đi với lý do lề đường nơi bà đứng là tài sản
tư nhân, muốn phát tờ rơi phải xin giấy phép của chủ nhân, và công ty Gulf thì
sẽ không cấp giấy phép cho đạo Jehovah’s Witness.
Kiện lên tới Tối cao Pháp
viện thì bà thắng. Thẩm phán Hugo Black cho rằng tuy Chickasaw là tài sản tư
nhân nhưng có tất cả các dấu hiệu của một chính quyền địa phương. Không có gì
phân biệt giữa những con đường hay khu phố thuộc công ty Gulf với những gì
không thuộc công ty Gulf. Vậy nên, Tu chính án thứ Nhất và 14 áp dụng cho tài sản
tư nhân Chickasaw y như áp dụng cho một chính quyền địa phương.
Thẩm phán Hugo
Black. Ảnh: Library of Congress/ Corbis/ VCG via Getty Images.
Nhưng Thẩm phán Black đi
xa hơn. Ông viết:
“Quyền sở hữu không phải lúc nào cũng là quyền tuyệt
đối. Người sở hữu mà vì lợi ích riêng mở rộng tài sản của mình cho công chúng
thì quyền của ông ấy [người chủ sở hữu] càng bị thu hẹp bởi những quyền luật định
và hiến định của người sử dụng.”
(Nguyên văn: “Ownership
does not always mean absolute dominion. The more an owner, for his advantage,
opens up his property for use by the public in general, the more do his rights
become circumscribed by the statutory and constitutional rights of those who
use it.”)
Với học thuyết này, những
cơ sở nào được mở rộng cho công chúng đều dễ bị xem là tương đương với đất nhà
nước và phải tôn trọng Tu chính án thứ Nhất và 14. Trong án lệ Logan
Valley, Tối cao Pháp viện trích dẫn Marsh và tuyên bố rằng
một trung tâm thương mại không có quyền cấm người đình công tới biểu tình chống
một tiệm trong đó, vì trung tâm thương mại được mở ra cho mọi người cùng
vào. Logan Valley, năm 1968, đánh dấu sự mở rộng lớn nhất của Tu
chính án thứ Nhất trên đất tư nhân.
Nhưng 1968 cũng là năm Tổng
thống Richard Nixon đắc cử và ông bắt đầu bổ nhiệm thêm nhiều thẩm phán bảo thủ.
Năm 1969, Chánh án Earl Warren nghỉ hưu, TT Nixon bổ nhiệm Thẩm phán Warren
Burger lên thay. Tòa tối cao thời Burger bảo thủ hơn và thiên về quyền tư hữu
tài sản hơn.
Năm 1972, với bốn thẩm
phán do TT Nixon bổ nhiệm, Tối cao Pháp viện xét vụ Lloyd
Corp. v. Tanner (1972). Donald Tanner và một nhóm phản chiến vào
trung tâm thương mại Lloyd Center ở Portland, Oregon, phát tờ rơi chống chiến
tranh Việt Nam. Nhân viên bảo vệ đuổi họ đi. Họ ra ngoài và kiện Lloyd vi phạm
Tu chính án thứ Nhất. Tòa dưới xử Tanner thắng, dựa trên tiền lệ Marsh và Logan
Valley.
Nhưng Tối cao Pháp viện
bác án tòa dưới. Tối cao Pháp viện cho rằng việc phát truyền đơn phản chiến
không liên quan tới mục đích của trung tâm thương mại là mua bán. Vì vậy, Tu
chính án thứ Nhất không áp dụng cho trung tâm thương mại Lloyd.
Điều đáng lưu ý là Tối
cao Pháp viện không hề hủy tiền lệ Marsh và Logan
Valley, mà chỉ cho rằng vụ này khác với hai tiền lệ đó. Khác với Chickasaw
trong Marsh, trung tâm thương mại Lloyd không giống một thị xã. Tối
cao Pháp viện cũng cho rằng vụ này khác Logan Valley vì
trong Logan Valley, người đình công tới để biểu tình một cửa tiệm
trong đó, còn vụ Lloyd thì phản chiến không liên quan tới những tiệm trong
Lloyd.
Sau Lloyd,
nhiều án lệ khác của Tối cao Pháp viện và các toà phúc thẩm tiếp tục khẳng định
một cơ sở tư nhân không bị Tu chính án thứ Nhất ràng buộc. (Độc giả ở Mỹ có thể
thắc mắc tại sao một số trung tâm thương mại để bảng xin lỗi khách hàng là họ
không thể cấm người phát truyền đơn. Lý do là hiến pháp một số bang, trong đó
có California, cho quyền tự do ngôn luận rộng hơn hiến pháp liên bang.)
Luật hiện nay: Tu
chính án thứ Nhất không áp dụng cho tư nhân
Lloyd v. Tanner là một bước ngoặt. Trước Lloyd, Tu chính án thứ Nhất
được xem là đương nhiên áp dụng cho các cơ sở tư nhân mà mở cửa rộng rãi cho
công chúng. Sau Lloyd, Tu chính án thứ Nhất được xem như không áp dụng
cho các thực thể tư nhân bất kể mở cửa rộng rãi cho ai. Tu chính án thứ Nhất chỉ
áp dụng cho tư nhân như một trường hợp ngoại lệ nếu giống như Marsh và Logan
Valley.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2021/01/burgercourt.jpg
Tối cao Pháp viện
Hoa Kỳ năm 1972, những người tạo ra bước ngoặt của Tu chính án thứ Nhất với án
lệ Lloyd v. Tanner. Chánh án Warren Burger đứng giữa. Ảnh: Gene
Forte/Consolidated News Pictures/Getty Images.
Yếu tố “mở cửa rộng rãi
cho công chúng” từng là yếu tố thiết yếu trong Marsh và Logan
Valley, thì Lloyd phớt lờ không để ý. Một mặt, điều này
khiến cho học thuyết “mở cửa rộng rãi cho công chúng” bị cho như đã chết. Mặt
khác, vì chưa hề bị bác bỏ nên vẫn có người còn sử dụng nó trong kiện tụng.
Trên không gian mạng,
có vụ kiện sử dụng Marsh làm tiền lệ để
đòi quyền được gửi thư rác (spam), lập luận rằng một công ty dịch vụ Internet
cũng giống như thị xã một chủ trong Marsh vậy, do đó công ty dịch vụ AOL không
có quyền cấm họ spam người sử dụng. (Kết quả: thua.)
Với Tối cao Pháp viện
ngày càng bảo thủ, khuynh hướng bảo vệ quyền tư hữu ngày càng tăng. Không phải
các thẩm phán bảo thủ không tôn trọng quyền tự do ngôn luận, nhưng họ thường
cho rằng nếu có cách nào khác để “ngôn luận” thì nên dùng cách đó thay vì áp đặt
lên quyền tư hữu của người ta. Thí dụ như trong Lloyd, tòa chỉ ra rằng nhóm phản
chiến này sau đó đã dễ dàng ra phát tờ rơi ở cả lối vào của người đi bộ và lối
ra vào bãi đậu xe.
Mới đây nhất, trong vụ Manhattan
Community Access Corp. v. Halleck (2019), Thẩm phán Kavanaugh do
TT Trump bổ nhiệm tái khẳng định nguyên tắc Tu chính án thứ Nhất không áp dụng
cho tư nhân. Tư nhân trong vụ Halleck là một công ty truyền hình, được thành phố
New York uỷ quyền điều hành kênh truyền hình cộng đồng của thành phố.
Kênh truyền hình cộng đồng
là một đặc trưng của truyền hình cáp ở Mỹ. Mỗi thành phố (hoặc khu vực trong một
thành phố nếu là thành phố lớn), truyền hình cáp chỉ do một công ty độc quyền
cung cấp. Tức là, mỗi thành phố chỉ cấp giấy phép truyền hình cáp cho một công
ty cung cấp. Để đổi lại cho độc quyền này, công ty truyền hình cáp dành riêng một
số kênh phát hình miễn phí cho thành phố, và thành phố mở các kênh này ra cho
người dân địa phương tự làm chương trình, tự phát hình. Về mặt ngôn luận, đây
là hình thức mở rộng tự do ngôn luận trên truyền hình, để cho người dân thường
cũng có tiếng nói chứ không phải chỉ có các công ty có tiền.
Thành phố New York giao
quyền điều hành kênh này lại cho công ty Manhattan Community Access Corp., đặt
tên kênh truyền hình là Manhattan Neighborhood Network (MNN). DeeDee Halleck và
Jesus Papoleto Melendez là nhân viên MMN. Bất bình với công ty, hai người làm
ra chương trình truyền hình trong đó có đoạn chỉ trích công ty. MNN bèn cắt
chương trình của hai người, và họ kiện.
Câu hỏi đặt ra là, vì MNN
hoạt động theo sự ủy thác của chính quyền địa phương, MNN có trở thành tương
đương với chính quyền không? Câu trả lời của Tối cao Pháp viện là không. Đại diện
cho phe đa số 5-4, Thẩm phán Kavanaugh vạch ra lằn ranh rõ ràng. Đã là tư nhân
thì không bị ràng buộc theo Tu chính án thứ Nhất. Chỉ khi nào thực thể tư nhân
sử dụng “quyền lực mà theo truyền thống là dành riêng cho nhà nước” (nguyên
văn: “powers traditionally exclusively reserved to the State”) mới có thể bị
xem là tương đương với nhà nước, thí dụ như khi tư nhân được giao quyền điều
hành một cuộc bầu cử. Điều hành kênh truyền hình cáp cộng đồng không phải là một
quyền lực kiểu đó.
Hơn nữa, “khi một thực thể
tư nhân cung cấp diễn đàn ngôn luận, thực thể tư nhân đó thường không bị Tu
chính án thứ Nhất bó buộc vì thực thể tư nhân không phải một chủ thể nhà nước.
Thực thể tư nhân do đó có toàn quyền kiểm soát các loại phát ngôn và người phát
ngôn trên diễn đàn đó.” (“[W]hen a private entity provides a forum for speech,
the private entity is not ordinarily constrained by the First Amendment because
the private entity is not a state actor. The private entity may thus exercise
editorial discretion over the speech and speakers in the forum.”)
Kết luận
Quyền tự do ngôn luận là
một nhân quyền phổ quát nhưng không phát triển đồng bộ mọi nơi mọi lúc. Trong tất
cả bốn yếu tố nêu ở đầu bài, đều có thể tìm ra nhiều khác biệt rất lớn ngay cả
giữa các nước tân tiến có chung một truyền thống pháp luật như giữa Mỹ và Anh
hay Úc. Ở Mỹ, quyền này có lúc hẹp có lúc rộng, mở-đóng theo lịch sử và theo địa
lý. Chỉ riêng trong phạm vi Tu chính án thứ Nhất, quyền này đã thay đổi theo thời
gian.
Tuy nhiên, tới thời điểm
này và trong tương lai gần, Tối cao Pháp viện liên bang gần như chắc chắn sẽ tiếp
tục áp dụng nguyên tắc tôn trọng quyền tư hữu, không ép tư nhân phải tôn trọng
ngôn luận mà họ không muốn. Sự nghiệp kinh doanh của Tổng thống Trump cho thấy
ông thuộc loại doanh gia rất nhanh nhảu trong việc kiện người này người khác.
Việc ông không dọa kiện Twitter cũng là chỉ dấu cho thấy ông biết khó thắng nếu
ra tòa.
No comments:
Post a Comment