Sunday, 20 December 2020

"NẾU KHÔNG THAY ĐỔI MÔ HÌNH, SỰ TAN RÃ CỦA ĐBSCL CHỈ LÀ THỜI GIAN" (Người Đô Thị)

 


“Nếu không thay đổi mô hình, sự tan rã của ĐBSCL chỉ là thời gian” 

Người Đô Thị

16:37 | Thứ sáu, 18/12/2020

https://nguoidothi.net.vn/neu-khong-thay-doi-mo-hinh-su-tan-ra-cua-dbscl-chi-la-thoi-gian-26779.html

 

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đứng trước ngưỡng tới hạn của mô hình phát triển cũ. Nếu không thay đổi mô hình thì tụt hậu là không thể tránh khỏi và sự tan rã chỉ là thời gian.

 

·         Nước sạch cho đồng bằng sông Cửu Long: Góc nhìn của người bản địa

·         Biến đổi môi trường ở ĐBSCL: “Sự bành trướng vô hạn của các đô thị”

·         Biến đổi môi trường ở ĐBSCL: Từ quan điểm phát triển đến giải pháp trữ nước

·         Miền Tây trong cơn khát lịch sử

·         Giao thông miền Tây không còn lụy đò nhưng rơi vào cảnh lụy đường

 

Đây là nhận định tại báo cáo thường niên kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (Đại học Fulbright Việt Nam) thực hiện.

 

Theo giới thiệu của TS Vũ Thành Tự Anh, Trưởng nhóm nghiên cứu, đây là bản báo cáo kinh tế thường niên đầu tiên cho vùng ĐBSCL, cũng là bản báo cáo kinh tế vùng toàn diện đầu tiên trong cả nước.

 

 

Tốc độ phát triển chậm lại

 

Theo báo cáo này, sau hơn ba thập kỷ kể từ đổi mới, mặc dù ĐBSCL đã thành công trong việc thoát đói, giảm nghèo, nhưng vùng đất này vẫn chưa đem lại được sự thịnh vượng cho phần lớn người dân của mình.

 

Bằng chứng là tốc độ phát triển của vùng đã chậm lại một cách đáng kể, mức sống của người dân thấp hơn mức trung bình của cả nước, và ĐBSCL ngày càng tụt hậu về hầu hết các khía cạnh phát triển kinh tế - xã hội.

 

Vai trò kinh tế của ĐBSCL cũng đang giảm dần so với các vùng khác trong cả nước. Mặc dù có lợi thế nằm ngay sát TP.HCM và vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ năng động và phát triển, song dường như ĐBSCL không được hưởng lợi đáng kể từ sự kết nối này, không những thế còn ngày một tụt hậu.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/39708649-cba9-434b-8226-a633a1a493ca.jpg

Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với hàng loạt thách thức.

 

Một nguyên nhân quan trọng khiến tăng trưởng GDP của ĐBSCL thấp hơn TP.HCM và Đông Nam Bộ là do ĐBSCL được giao sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước, vì vậy phải tập trung vào nông nghiệp và sản xuất lúa gạo, và kết quả là chậm chuyển dịch sang các ngành có năng suất cao hơn.

 

Sự chênh lệch về mức sống và thiếu cơ hội kinh tế là hai nguyên nhân quan trọng thúc đẩy tình trạng di cư của người dân đồng bằng về TP.HCM và miền Đông Nam Bộ.

 

Kết quả là so với các vùng khác trong cả nước, ĐBSCL có tỷ lệ nhập cư thấp nhất, tỷ lệ xuất cư cao nhất, và do đó là vùng duy nhất có tỷ lệ tăng dân số là 0,0% trong giai đoạn 2009-2019.

 

Một thành tích nổi bật của ĐBSCL trong hai thập niên trở lại đây là kết quả giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Chính phủ ở ĐBSCL đã giảm từ mức rất cao là 36,9% vào năm 1998 xuống chỉ còn 12,6% vào năm 2010 và 5,2% vào năm 2016, và tỷ lệ này tiếp tục giảm trong giai đoạn 2016-2019. Không những thế, tỷ lệ nghèo của ĐBSCL luôn thấp hơn so với mức trung bình của cả nước.

 

Tuy nhiên, đa số thành tích giảm nghèo của ĐBSCL (cũng như của cả nước nói chung) được thực hiện trong 6 năm từ 1998 đến 2004.

 

Điều này, một mặt gợi ý rằng phần dễ dàng trong giảm nghèo đã gần hết, và vì vậy kết quả giảm nghèo sẽ càng ngày càng khiêm tốn hơn so với trước; mặt khác cho thấy từ nay trở đi kết quả giảm nghèo sẽ mong manh hơn và có thể bị đổi chiều dưới tác động của những rủi ro kinh tế, môi trường, và dịch bệnh trong và ngoài nước.

 

 

Lo ngại về năng suất công nghiệp

 

Trong giai 2010-2019, năng suất lao động (NSLĐ) của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp và thương mại - dịch vụ tăng rất nhanh, với mức trung bình lần lượt là 5,2% và 8,3% trong giai đoạn 2010-2019.

 

Đáng lưu ý là tốc độ tăng NSLĐ công nghiệp - xây dựng trong giai đoạn 2010-2019 chỉ là 3,5%/năm – thấp hơn hẳn so với khu vực nông - lâm - ngư nghiệp vốn là khu vực không có nhiều dư địa để tăng năng suất.

 

Có ba nguyên nhân trực tiếp nằm đằng sau thực trạng đáng lo ngại về tốc độ tăng năng suất công nghiệp ở ĐBSCL.

 

Thứ nhất, năng suất công nghiệp phụ thuộc vào đầu tư, và trong bối cảnh của Việt Nam thì quan trọng nhất là đầu tư của khu vực FDI, mà đây chính là một điểm yếu cố hữu của ĐBSCL.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/f111116f-ab2d-4bc9-9963-fbe3639c3f66.jpg

Vùng ĐBSCL phải đảm bảo nhiệm vụ an ninh lương thực.

 

Thứ hai, hoạt động sản xuất công nghiệp quan trọng nhất ở ĐBSCL là chế biến thủy hải sản, thế nhưng tốc độ tăng trưởng của hoạt động này lại khiêm tốn, không những thế còn chịu rủi ro từ những biến động thất thường không chỉ về khí hậu và tự nhiên, mà còn do khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.

 

Đại dịch COVID-19 có thể làm trầm trọng hơn tình trạng này, khiến công nghiệp ĐBSCL khó phát triển ít nhất là trong trung hạn.

 

Thứ ba, các hoạt động sản xuất công nghiệp còn lại của ĐBSCL nhìn chung khá trầm lắng, nếu có tăng trưởng thì chủ yếu tập trung vào các hoạt động chế tạo - chế biến thâm dụng lao động với giá trị thấp.

 

Nhìn sâu xa hơn, công nghiệp của ĐBSCL nói riêng và kinh tế - xã hội ĐBSCL nói chung đang bị cản trở bởi nút thắt nghiêm trọng về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối với Đông Nam Bộ.

 

Trong khi công nghiệp chế biến - chế tạo và cơ sở hạ tầng là hai nút thắt quan trọng cho tăng trưởng của ĐBSCL thì tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội của Vùng so với cả nước ngày càng suy giảm, đặc biệt là từ năm 2015 đến nay.

 

Không những thế, nguồn đầu tư từ khu vực nhà nước ngày càng bị thu hẹp cả về quy mô tuyệt đối lẫn tỷ trọng tương đối (41,4% năm 2014 giảm còn 22,4% năm 2018.

 

Đối với FDI, ĐBSCL chưa thực sự tỏ ra hấp dẫn. FDI của vùng chỉ chiếm 5,6% số dự án và 8,4% số vốn đăng ký của cả nước, chủ yếu do bất lợi về mặt địa lý và khả năng kết nối giao thông. Long An và Tiền Giang là các tỉnh có khả năng thu hút đầu tư FDI tốt nhất vùng nhờ có đường cao tốc nối liền với TP.HCM.

 

Một cách tổng thể, nhu cầu đầu tư quan trọng nhất ở ĐBSCL là phát triển hạ tầng giao thông (cầu, đường cao tốc, đường tỉnh lộ), hỗ trợ đổi mới mô thức sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp và thích nghi với biến đổi khí hậu, và chế biến sản phẩm nông - thủy sản.

 

Trong thời gian qua, các cây cầu trọng yếu ở ĐBSCL có vai trò tích cực, nhưng nhiều cây cầu quan trọng vẫn chưa được xây dựng. Nhiều công trình thủy lợi, ngăn mặn tuy thành công để thâm canh và tăng sản lượng lúa, nhưng cơ bản là thất bại trong việc gia tăng giá trị, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, thậm chí gây hại cho sự bền vững cả về kinh tế và môi trường trong tương lai.

 

 

1,1 triệu người di cư trong 10 năm

 

Theo kết quả Điều tra Dân số và Nhà ở, dân số vùng ĐBSCL vào ngày 1.4.2019 là 17,3 triệu người, gần như không đổi so với mức 17,2 triệu người trước đó 10 năm. Số lượng di cư ròng khỏi ĐBSCL trong thập niên vừa qua là gần 1,1 triệu người, lớn hơn dân số của một số tỉnh trong vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng.

 

Nhìn về tương lai, nếu không có những yếu tố đột biến, rất khó để ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng dân số chung và dân số đô thị cao hơn trong 10 năm tới. Trên thực tế, dân số cả Vùng hàng năm đã giảm 0,3% mỗi năm trong hai năm gần đây và dân số thành thị chỉ tăng khoảng 0,6%/năm.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/379f8257-73e4-4d87-a6c8-ae503bc8f296.jpg

Tình trạng khô hạn ở miền Tây ngày càng khốc liệt. Ảnh: Lê Thế Thắng/Người Đô Thị

 

Nếu xu thế di dân tiếp tục như hiện nay, mà khả năng này rất cao, thì đến năm 2030, dân số của cả vùng còn chưa đến 17 triệu người, và đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa rất khó đạt 30%.

 

Báo cáo này cho rằng để giảm thiểu những thách thức và bất lợi của ĐBSCL cũng như ứng phó với biến đổi khí hậu, việc phân bố lại dân cư, từng bước xóa bỏ thói quen dân cư sống dọc tuyến giao thông, tập trung dân cư về thị trấn/ thị xã/ đô thị để cải thiện hiệu quả cung cấp hạ tầng và dịch vụ xã hội thiết yếu.

 

Để thực hiện được chiến lược này, cần có quy hoạch bài bản và nhất quán về kinh tế - xã hội - môi trường, đồng thời Trung ương cần dành đủ nguồn lực để xây dựng các hạ tầng giao thông kết nối với vùng TP.HCM.

 

Kết luận báo cáo nhận định, ĐBSCL đang trải qua một loạt những thách thức lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, đồng thời đang đứng trước ngưỡng tới hạn của mô hình phát triển cũ. Nếu mô hình này – bao gồm cả chính sách của nhà nước và tập quán của người dân và doanh nghiệp – không thay đổi, thì tụt hậu là điều không thể tránh khỏi và sự tan rã của ĐBSCL chỉ là vấn đề thời gian.

 

Ngược lại, nếu đủ dũng khí và trí tuệ để chuyển sang mô hình phát triển mới, những thách thức hiện nay sẽ trở thành cơ hội to lớn để ĐBSCL tăng cường năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững, từ đó mở ra một tương lai xán lạn cho hơn 17 triệu đồng bào cũng như những thế hệ sau này.

 

Lam Thanh

 

 

·         Mỗi năm, hơn 1 triệu dân di cư ra thành phố làm ăn

·         Biến đổi môi trường ở ĐBSCL: “Sự bành trướng vô hạn của các đô thị”

·         Biến đổi môi trường ở ĐBSCL: Từ quan điểm phát triển đến giải pháp trữ nước

·         Miền Tây trong cơn khát lịch sử

·         Những dự án giao thông đình trệ ở miền Tây

 

Nguồn Một Thế Giới

 

-------------------------------------------------

.

.

Nỗi niềm sau chuyện hơn 1,3 triệu người miền Tây li hương    

Người Đô Thị 

20:52 | Thứ bảy, 19/12/2020

https://nguoidothi.net.vn/noi-niem-sau-chuyen-hon-1-3-trieu-nguoi-mien-tay-li-huong-26786.html

 

 

Nạn di cư của người miền Tây chỉ giải quyết tạm thời bài toán kinh tế trước mắt, nhưng hệ lụy thì lâu dài, nhất là với thế hệ sau và xã hội.

 

·         Tương lai vùng ĐBSCL gặp thách thức lớn do biến đổi khí hậu: Ứng phó ra sao?

·         Biến đổi môi trường ở ĐBSCL: “Sự bành trướng vô hạn của các đô thị”

·         Làm sao để 'giải cứu' TP.HCM, ĐBSCL trước ảnh hưởng từ lún nền đến nguy cơ chìm ngập?

·         Khoa học và chính trị xung quanh thông tin ĐBSCL, TP.HCM sẽ "biến mất"

 

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/48d7b5fe-0778-469f-af8a-07d1fb314af9.jpg

Hình ảnh dòng người dân các tỉnh miền Tây ùn ùn trở lại TP.HCM để làm việc, học tập sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán khiến nhiều khu vực bị ùn tắc nghiêm trọng. Ảnh: Báo Dân Việt

 

Tôi lên Bình Dương ghé nhà trọ thăm cháu, mua vài món mồi ngon với chai rượu nếp chờ sẵn, nhưng chúng không màng. Đám cháu tôi từ miền Tây đi làm công nhân xa nhà. Tôi đã nhiều lần lên khu trọ thăm chúng. Tôi chủ động chạy ra chợ mua đồ ăn, dọn mâm chờ sẵn, nhắn các cháu về phòng trọ sớm lai rai. Bọn trẻ hôm đó không tăng ca để về sớm với tôi, nhưng ngồi một lúc, đứa nào cũng xin dừng vì sáng mai phải vào ca sớm.

 

Ở lại khu trọ với chúng, tôi chứng kiến đời sống cơ cực. Các cháu tôi phải thức dậy từ rất sớm, ăn vội chén cơm nguội, nắm xôi hay ổ bánh mì rồi tất tả vào ca. Giờ nghỉ trưa, chúng ăn uống qua loa rồi ngả lưng vật vạ đâu đó, chờ vào ca chiều. Tan ca đã sáu, bảy giờ chiều, một đứa chạy ra chợ chồm hổm gần nhà máy, mua ít rau củ, cá mắm nấu vội bữa cơm muộn cho đỡ nhớ cơm nhà. Có đứa chẳng còn sức nấu nướng, mua hộp cơm bụi về phòng trọ, nuốt từng muỗng khó nhọc.

 

Buổi tối, trong những căn phòng trọ chật chội, ẩm thấp và đầy tiếng ồn, chúng gọi điện nói vài điều với người dưới quê rồi chìm vào giấc ngủ mệt nhọc. Thăm cháu mấy lần, hình ảnh trong tôi chỉ là chúng lê bước về phòng trọ khi tối mịt, rã rời và ngả lưng xuống là ngủ. Cụm từ chúng hay nhắc đến là “vào ca”với “tăng ca”.

 

Tưởng đâu phải ly hương, làm việc như thế thì thu nhập khá lắm. Hầu hết mỗi người chỉ được khoảng 6 triệu đồng 1 tháng. Trừ hết chi phí ở trọ, điện nước, ăn uống, sinh hoạt, mỗi người còn 1-2 triệu đồng. Ai tăng ca được thì thu nhập cao hơn đôi chút, nhưng sức khỏe nhanh chóng kiệt quệ. Chúng bán sức khỏe, bán tuổi trẻ để kiếm một ít tiền. Dù vậy, người trẻ quê tôi vẫn không ngừng “trôi” về các khu công nghiệp lớn.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/b202e642-f1ef-4485-bdc5-2aebf4eaeae0.jpg

Những dịp lễ, tết, quốc lộ 1A chật ních vì dòng người miền Tây về thăm quê. Ảnh: H.H

 

Báo cáo của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Trường Chính sách công và quản lý Fulbright đưa ra con số hơn 1,3 triệu người miền Tây đã di cư lên Sài Gòn và Đông Nam Bộ trong 10 năm qua. Số người này nhiều hơn dân cư của một tỉnh trong khu vực đồng bằng.

 

Trước đây, miền Tây là mảnh đất phù sa màu mỡ, ruộng vườn trù phú, người dân hào hiệp trượng nghĩa, nơi lý tưởng để lưu dân các vùng khác đến định cư thì nay thiên nhiên và con người đều kiệt quệ. Sự ra đi của hơn 1,3 triệu người có thể chưa phải điều tồi tệ nhất khi mà dự báo trong những năm tới, tình hình li hương còn trầm trọng hơn. Không chỉ người lao động chân tay đi tìm việc trong công xưởng mà những trí thức cũng bỏ quê tìm vùng đất hứa.

 

Nạn di cư của người miền Tây chỉ giải quyết tạm thời bài toán kinh tế trước mắt, nhưng hệ lụy thì lâu dài, nhất là với thế hệ sau và xã hội. Ở quê tôi, không đếm hết các cặp vợ chồng trẻ đi làm ăn xa, gởi con lại cho ông bà. Bọn trẻ dường như lúc nào cũng thiếu thốn hơi ấm và giáo dục của cha mẹ. Nếu không, cả gia đình dắt díu nhau lên thành phố, nhiều ngôi nhà khóa cửa, quây kín bằng chà gai, bỏ mặc bàn thờ tổ tiên, mồ mả ông bà. Mỗi năm, vài chủ nhà một đôi lần về quê, chưa kịp chào hỏi xóm giềng thì lại quay đi.

 

Trong gia đình tôi, hàng chục người đi làm công nhân tại các khu công nghiệp ở Bình Dương, Sài Gòn và Long An. Tôi không thấy ai khá giả hơn và sự di cư trên diện rộng ấy cũng không làm cho miền Tây khởi sắc hơn, trái lại còn tiêu điều. Nhiều đứa cháu tôi sau khi “làm ăn xa”, cốt cách thay đổi. Ngày lễ tết chúng về, ăn mặc khác thường, đầu tóc kiểu model, phóng xe máy đi nhậu hết chỗ này đến chỗ khác. Chúng say be bét suốt ngày, rồi lôi thùng loa kẹo kéo về ca hát thâu đêm suốt sáng.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/102ed90b-986c-4036-b648-233d0959f9f5.jpg

Nhiều khu vườn bỏ hoang. Ảnh: H.H

 

Các chị tôi, lúc thì la mắng con cái, lúc năn nỉ, khóc lóc van xin “đừng nhậu nữa”, nhưng vô hiệu. Tôi đành an ủi chị: "Thôi, cả năm tụi nó cũng chỉ được vui có mấy ngày này". Tôi thương các cháu tôi, nhưng không thể giữ ở lại vì chính chúng cũng bảo ở quê giờ không sống nổi.

 

Tôi nghĩ, nếu nhà nước có một chiến lược cấp bách tạo công ăn việc làm ngay tại chỗ cho miền Tây, nạn di dân cực đoan sẽ giảm đáng kể. Đó là giải pháp để bà con thôi bỏ đi. Hiện có vài khu công nghiệp ở miền Tây, nhưng quy mô còn nhỏ lẻ, chỉ sử dụng được ít lao động địa phương. Các tập đoàn, doanh nghiệp chưa sẵn sàng đầu tư xây dựng nhà máy lớn, khu công nghiệp quy mô bởi một phần chưa đủ chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư. Mặt khác, hệ thống hạ tầng giao thông cơ bản cho sản xuất quy mô cũng như giao thông liên kết vùng - tiền đề quan trọng thu hút nhà đầu tư - còn rất yếu.

 

Nguồn lao động ở miền Tây không thiếu, chỉ thiếu môi trường làm việc cho họ. Tôi cho rằng, nếu giao thông thuận tiện và có những chính sách mới, nhiều nhà kinh doanh sẽ muốn đến với miền Tây. Khi ấy, người quê tôi có thể đi làm gần nhà, mỗi ngày được về với con cái, cha mẹ.

 

Việc đầu tư phát triển nông nghiệp hiện đại và bền vững cho miền Tây nếu có, cũng sẽ góp phần giữ chân các nhà khoa học, trí thức trẻ gắn với quê hương, thay vì đi học rồi ở lại thành phố, ra nước ngoài. Nếu chính quyền dùng thửa ruộng và khu vườn của nông dân để giữ chân họ, không ai muốn chạy lên Sài Gòn, Bình Dương.

 

Người miền Tây không còn muốn nghe ca ngợi nơi đây là “vựa lúa” hay “thủ phủ hoa màu cây trái”. Họ chỉ cần ruộng vườn đủ nước tưới tiêu, mùa màng thu hoạch đừng thất bát, giá cả nông sản đừng quá biến động. Bấy nhiêu đó thôi là đủ để họ bám đất, bám quê.

 

Sau các đợt lễ tết, tôi thường sợ đọc báo bởi lẽ, cứ nhìn thấy ảnh dòng người miền Tây chen chúc nhích dưới cái nắng phương Nam đổ lửa, lòng tôi xót xa lắm. Vì trong dòng người ấy, có mấy đứa cháu tôi, bà con và người quê tôi.

 

Khi nào miền Tây chưa thể cưu mang được họ, họ sẽ còn tiếp tục đi tìm tương lai mờ mịt và nhọc nhằn.

 

Chí Hùng

·         “Nếu không thay đổi mô hình, sự tan rã của ĐBSCL chỉ là thời gian”

·         Phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030

·         Biến đổi môi trường ở ĐBSCL: Từ quan điểm phát triển đến giải pháp trữ nước

·         An ninh lương thực - Góc nhìn của lãnh đạo các tỉnh ĐBSCL

 

Nguồn Một Thế Giới

 

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment

View My Stats