GỬI NHÀ
VĂN QUỐC DOANH (KỲ 4, CUỐI)
https://www.facebook.com/100060136653706/posts/102154888465733/
Một nước, một dân tộc
không thể thiếu nền văn hóa. Văn học văn chương là cột trụ của nền văn hóa ấy.
Nước Nam ta, bao đời nay theo dòng thời gian trôi đi, trôi mãi không ngừng, các
sự kiện, vĩ nhân, anh hùng, dấu mốc lịch sử, khúc ngoặt khúc quanh dần chìm khuất,
thậm chí mất hẳn sau lớp lớp sóng xô, nhưng văn chương tinh hoa vẫn tồn tại,
còn mãi với đời. Người ta gọi đó là giá trị trường tồn.
Điều dễ nhận ra, những
tác phẩm sinh nở từ cuộc sống hiện thực, phản chiếu bức tranh xã hội cụ thể, chứa
những mảnh đời, thân phận, buồn vui trong chính thời đại mà người cầm bút sống,
từng trải, chiêm nghiệm, mô tả, biên chép; những trang viết ròng ròng máu, mồ
hôi, nước mắt, đầy tiếng khóc tiếng cười, thì thường thọ lâu bền hơn so với thứ
văn chương hư cấu, tưởng tượng. Ngay cả Truyện Kiều, dù lấy cốt từ văn học lịch
sử Tàu thì bức tranh xã hội mà cụ Tiên Điền mô tả vẫn là xã hội cụ đang sống,
đang trôi từng ngày trong đời cụ, như chính cụ thổ lộ “những điều trông thấy mà
đau đớn lòng”. Đành rằng những tác phẩm hư cấu, tưởng tượng, không gắn với hiện
thực đang tồn tại cũng có nhiều cái hay riêng của nó, nhất là điều được gọi là
“giá trị nghệ thuật”, nhưng quả thật để tạo nên sự lay động lòng người, khiến
người ta phải khóc cười thì văn chương phi hư cấu mới làm đầy đủ. Thứ văn ấy là
văn trong sử, văn chứa sử, chứa bóng dáng thời đại qua mỗi chặng đường xã hội.
Không ai hồ đồ phán xét
các nhà văn quốc doanh, văn chương mậu dịch là thoát ly hẳn cuộc sống. Phần
đông nhà văn ta vẫn viết về tổ quốc tươi đẹp, quê hương yêu dấu, chủ quyền biển
đảo, kinh tế thị trường, những trò đùa dai, những sự hiểu lầm, viết về tình
yêu, về nỗi buồn, về sông dài núi cao, về đảng và bác, về chủ nghĩa xã hội… Nhiều
lắm. Hình như họ chỉ quên cuộc sống bần cùng của dân chúng, nỗi đau của người bị
áp bức, cảnh người lương thiện bị xô đẩy vào đường cùng. Văn mậu dịch nhiều niềm
vui, màu hồng, tiếng cười nắc nẻ, trò giải trí, chỉ thiếu bức tranh xã hội xám
xịt, thiếu bi kịch thân phận dân chúng cần lao. Đã qua rồi 20 năm Thủ Thiêm, 1
năm tròn Đồng Tâm, cụ Kình đã sắp giỗ đầu, chưa kể hàng trăm vụ dân oan lê lết
khiếu kiện hết năm này năm khác, mà văn chương mậu dịch (tôi nhấn mạnh văn
chương mậu dịch, chứ không phải nhà văn nói chung) không thấy đoái hoài gì,
không lấy một chữ một câu. Chỉ chê trách nó thôi là còn quá nhẹ. Tuy nhiên, nó
im còn đỡ, chứ lại rặn đẻ ra vài cái “chuyện làng Nhô” mới khốn nạn, bất nhân.
Đừng trách tôi nặng lời.
Tôi còn nhớ, thời thập niên 60 - 70, nhà cầm quyền luôn lo ngại nhà văn trong đội
ngũ của họ dửng dưng với thời cuộc nên thường tổ chức những cuộc đi thực tế, họ
gọi là lăn mình vào cuộc sống, thở hơi thở của nhân dân, bắt nhà văn phải xả
thân vào hiện thực nóng bỏng, nếu thu hoạch được gì qua mắt thấy tai nghe thì
viết ngay, sinh đẻ ngay tác phẩm. Trang văn vì vậy sôi động, ấm áp, sinh sắc,
thu hút, chân thực, có hồn. Lứa chúng tôi ra đời giữa thập niên 50 được đọc nhiều
tác phẩm như thế, dù biết rằng nó cũng chỉ là thứ sản phẩm minh họa, tính định
hướng cao, hằn rõ vòng kim cô. Chả thể đòi hỏi gì hơn bởi dù sao cũng là đồ mậu
dịch. Mậu dịch mà được vậy là khá lắm rồi.
Lâu nay nhà văn luôn đòi
quyền tự do sáng tác, khi công khai, lúc ngấm ngầm. Chả ông bà nhà văn nào tự
nhận mình không thích tự do sáng tác. Chỉ có điều, khi đã tự nguyện chấp nhận
mình thành nhà văn mậu dịch, thành viên của hội văn quốc doanh thì quyền tự do
sáng tác không có tác dụng nữa. Họ cũng như ông Fadeev của Liên Xô ngày trước
thôi, rất ngạo nghễ tuyên bố “các nhà văn xô viết chúng ta được sáng tác theo
tiếng gọi của trái tim mình, nhưng trái tim chúng ta đã thuộc về đảng”. Hồi cuối
thập niên 60, tôi được nghe kể, ông Trường Chinh đến chỉ đạo đại hội nhà văn
(thời nào cũng vậy, đảng rất thích chỉ đạo văn nghệ sĩ), nghe loáng thoáng nhà
văn nào đó rụt rè về quyền tự do sáng tác, anh Cả liền mắng ngay, đại loại, ai
bảo rằng các anh chị không có quyền tự do sáng tác, các anh chị vẫn có quyền
tha hồ chửi bọn đế quốc Mỹ đó thôi. Bị cụ mắng, thế là tịt ngòi, cấm ai dám ho
he. Vậy nên, đừng trao quyền tự do sáng tác cho nhà văn quốc doanh làm gì, bởi nó
là thứ xa xỉ, thừa, không cần thiết, lãng phí. Có đảng thì không có tự do, có tự
do thì không có đảng.
Nhưng xin thưa với các
nhà văn quốc doanh, chính cụ Cả cũng từng khuyên rất chí lý với những nhà văn
nhà thơ xa rời cuộc sống, thờ ơ trước số phận nhân dân. Cụ bảo “Hỡi thi sĩ! Hãy
vươn mình đứng dậy!/Thời rượu nồng, nệm ấm đã qua rồi/Thôi thôi đừng khóc gió với
than mây/Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ”. Nhà văn mậu dịch, ai mà chả biết
chả thuộc chả nghe tuyên ngôn này. Vậy thì hỡi các vị, đảng đã dạy, hãy thực hiện
đi, về với đời thực, với dân chúng, với Thủ Thiêm, Đồng Tâm, với những “cái đêm
hôm ấy đêm gì”...
Phải nhìn thẳng và thừa
nhận rằng chưa bao giờ văn chương thơ phú mất giá như thời hội đoàn quốc doanh.
Dẫn ra thì bảo thô tục, thiếu tao nhã nhưng cái sự thê thảm ấy đã được nhà thơ
bình dân Nguyễn Bảo Sinh đúc kết một cách chính xác và chua chát: “Vợ tôi nửa tỉnh
nửa mơ/Hôm qua nó bảo dí thơ vào ồn/Vợ tôi dở dại dở khôn/Hôm nay lại bảo dí ồn
vào thơ”. Mà chẳng riêng gì thơ, văn học phải đạo, nghệ thuật phải đạo, bị
tuyên giáo định hướng dẫn dắt đều như thế. Kịch rặt những trò cười nhảm nhí rẻ
tiền, đùa dai hiểu lầm; phim, nói như thi sĩ chuyên nghiệp Trần Đăng Khoa, “ngồi
buồn cởi cúc coi chim/còn hơn vào rạp xem phim nước mình”…
Còn điều nữa muốn nói,
nhưng không phải với nhà văn quốc doanh, mà với hội của họ. Xứ này nhiều hội
đoàn quá rồi, bội thực hội, mãn hội, thành gánh nặng cho dân. Lưng còng dân chỉ
gánh đảng và tay ngắn tay dài, tay phải tay trái của đảng đã đủ chết, mong sao
bớt được những thứ hội đoàn của nợ. Báo Tuổi Trẻ năm 2016 có bài tít đậm nêu rõ
xứ ta mỗi năm phải chi ngân sách tới 68.000 tỉ đồng để nuôi các hội đoàn. Đọc
con số, nhiều người chết ngất. Hội văn bút quốc doanh là một trong những cái miệng
cá ngão bú bầu sữa ngân sách kinh khủng đó. Hỡi hội nhà văn quốc doanh, nên tự
làm nuôi lấy mình, lao động để tồn tại, sống bằng ngòi bút, đừng bấu xấu trông
chờ tiền thuế của dân. Hãy học các nhà sư (tất nhiên không phải sư quốc doanh),
giác ngộ “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm thì một
ngày không có ăn). Nhà chùa gánh trọng trách nặng nề cứu nhân độ thế mà còn biết
tự lực cánh sinh vậy, huống hồ nhà văn quen khóc gió than mây.
Nguyễn Thông
(Ghi chú: Đây là kỳ cuối
trong loạt bài "Gửi nhà văn quốc doanh", 3 kỳ trước đăng trong địa chỉ
FB Nguyễn Thông vừa bị chặn đóng, nên phải đưa nốt vào địa chỉ mới này)
Ảnh: Hai bản tư liệu của
nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện và nhà thơ Nguyễn Duy
https://www.facebook.com/photo?fbid=107340321280523&set=pcb.102154888465733
Nguyễn Duy
https://www.facebook.com/photo?fbid=107340961280459&set=pcb.102154888465733
Nguyễn Khắc Viện
-------------------------------------------------------------------------------------
https://www.facebook.com/nguyen.thongcao/posts/107415591272996
"Thực tiễn là thước
đo kiểm định mọi giá trị của chân lý" (Lênin). Tôi phải trích đưa ngay câu
này lên đầu bài để nếu mấy ông bà dư luận viên, các nhà lý luận vô sản, mấy vị
tuyên giáo hót như chim, các thành viên của chương trình Đối diện, chương trình
Cất cánh trên tivi... mà giở giói vặn vẹo thì tôi sẽ không trả lời (ai hơi đâu
tranh luận với cối xay gió) mà chỉ đề nghị hãy xem lại câu đầu tiên trong tút
(status).
Hồi còn trẻ, độ tuổi dưới
30, lúc ấy đi học và sau đó dạy học, tôi nhìn và xét mọi việc hầu như chỉ một
chiều, theo kiểu nhà thơ Việt Phương từng tổng kết "ta quả quyết đồng hồ
Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ/Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ".
Ngồi trên giảng đường nghe các thầy chính trị Mác-Lênin rao giảng, dù không hẳn
tin mà vẫn cứ cố tin; rồi đứng trên bục giảng lại cũng nói với trò như thế,
chúng có tin hay không thì mình không biết. Nhưng mỗi cuộc tụ bạ, đàn đúm vài
ba anh em đồng nghiệp với nhau, sau những chuyện đời thường lại vụt lên sự thắc
mắc: Trên địa cầu, tại sao cứ những nước theo phe XHCN đều nghèo đói, chậm phát
triển, khổ hết đời nọ sang đời kia, xung đột sắc tộc, tham gia đánh nhau liên
miên...; còn hầu hết bọn tư bản giãy chết thì hàng hóa dồi dào, mức sống ngày
càng cao, kinh tế phát triển, ăn sung mặc sướng, đồ của nó luôn thuộc loại cao
cấp mình chỉ có trong mơ... Vấn nhau chán, đọng lại trong đầu: vậy tại sao cứ
phải theo CNXH? Nhưng không ai đưa ra được câu trả lời bởi lý luận và thực tiễn
đang giằng xé trong mỗi người.
Đến lúc lăn vào cuộc mưu
sinh, chỉ lo cơm áo gạo tiền cũng đủ mệt, chả mấy khi nghĩ đến những chuyện
khác. Nhưng (lại nhưng) cứ văng vẳng điều gì ghê gớm lắm, khi bình tâm tìm hiểu,
mới ngộ ra rằng cuộc sống đang diễn ra quá ngột ngạt, cái gọi là "dân chủ
gấp nghìn lần thứ dân chủ tư sản", "thiên đường XHCN" hình như
chỉ lờ mờ, loáng thoáng, nhợt nhạt, viển vông, siêu hình, hão huyền, tự lừa dối,
không có thật. Cả một nước, một dân tộc bị một nhóm người gọi là đảng đứng ra tự
nhận quyền lãnh đạo dẫn dắt. Nói cho công bằng, nếu họ tài giỏi, làm hay, đức tốt
thì cộng đồng có phận nhờ, ngược lại thì ráng chịu. Mấy anh em, lúc này đã lớn tuổi
rồi, lại ngơ ngác hỏi nhau: ở nhiều nước, người ta có độc tôn độc quyền độc đảng
như thế đâu nên cuộc sống hết sức dễ chịu, quyền của con người được tôn trọng,
không khí dân chủ cởi mở. Sao ta lại khăng khăng từ chối như vậy. Làm sao sự hạnh
phúc, giàu có thành hiện thực như không khí, cơm ăn áo mặc hằng ngày? Cả mấy
anh em, ai cũng sẵn câu hỏi, ai cũng có thể trả lời, mà không ai trả lời.
Có thể vài năm nữa, hoặc
vài chục năm nữa, các lớp con cháu sẽ hưởng cuộc sống khác hẳn bây giờ, hy vọng
là dễ chịu hơn, chất lượng đích thực hơn. Và lúc ấy, chúng sẽ thắc mắc tại sao
cha ông chúng lại cam chịu kéo dài sự khổ sở, thiếu thốn, ngột ngạt, mất quyền...
như chúng nghe kể lại. Chắc chắn chúng không hiểu vì sao, không tin đã từng xảy
ra như thế.
Thông cào
No comments:
Post a Comment