Hải
chiến Hoàng Sa 19-1-1974 có một người Ông Tạ: Vũ Hữu San, hạm...
17/01/2021
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/01/HQ-4.jpg
HQ-4 Trần Khánh Dư. Ảnh: internet
0g đêm 16 rạng 17-1-1974,
25 tháng Chạp, còn vài ngày nữa là Tết. Khu Ông Tạ đang tràn ngập không khí đón
Tết Giáp Dần 1974 thì một người Ông Tạ lặng lẽ cùng chiến hữu mình lướt sóng Biển
Đông tiến ra Hoàng Sa: Hạm trưởng HQ-4 Trần Khánh Dư, Vũ Hữu San.
Ngày 19-1-1974 là 27 Tết.
Bộ Ngoại giao VNCH khẩn cấp ra tuyên cáo số 015/BNG/TTBC/TT (xin giữ nguyên
cách hành văn và quy cách chính tả của tuyên cáo thời điểm ấy):
“Sau khi mạo-nhận ngày
11-1-1974 chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa của VNCH, Trung-Cộng
đã đưa Hải-Quân tới khu-vực Hoàng-Sa, và đổ-bộ quân lính lên các đảo Cam-Tuyền,
Quang-Hoà và Duy-Mộng. Lực-lượng Hải-Quân Trung-Cộng gồm 11 chiến-đĩnh thuộc
nhiều loại và trọng-lượng khác nhau, kể cả tàu loại Komar có trang-bị hỏa-tiễn.
Để bảo-vệ sự vẹn-toàn
lãnh-thổ và nền an-ninh quốc-gia trước cuộc xâm-lăng quân-sự này, các lực-lượng
Hải-Quân VNCH trấn-đóng trong khu-vực này đã ra lệnh cho bọn xâm-nhập phải rời
khỏi khu-vực. Thay vì tuân-lệnh, các tàu Trung-Cộng, kể từ 18.1.1974, lại có những
hành-động khiêu-khích như đâm thẳng vào các chiến-đĩnh Việt-Nam.
Sáng ngày nay 19.1.1974,
hồi 10 giờ 20, một Hộ-Tống-Hạm Trung-Cộng thuộc loại Kronstadt đã khai-hoả bắn
vào Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư mang số HQ-4 của VNCH. Để tự-vệ, các chiến-hạm
Việt-Nam đã phản-pháo và gây hư-hại cho Hộ-Tống-Hạm Trung-Cộng. Cuộc giao-tranh
hiện còn tiếp-diễn và đang gây thiệt-hại về nhân-mạng và vật-chất cho cả đôi
bên.
Các hành-động quân-sự của
Trung-Cộng là hành-vi xâm-phạm trắng-trợn vào lãnh-thổ Việt-Nam Cộng-Hoà, và một
lần nữa vạch-trần chính-sách bành-trướng đế-quốc mà Trung-Cộng liên-tục theo-đuổi,
đã được biểu-lộ qua thôn-tính Tây-Tạng, cuộc xâm-lăng Đại-Hàn và Ấn-Độ trước
kia.
Việc Trung-Cộng ngày nay
xâm-phạm lãnh-thổ VNCH không những chỉ đe-dọa chủ-quyền và an-ninh của VNCH, mà
còn là một hiểm-hoạ đối với nền hoà-bình và ổn-cố của Đông-Nam-Á và toàn thế-giới.
Với tư-cách một nước nhỏ
bị một cường-quốc vô-cớ tấn-công, VNCH kêu-gọi toàn-thể các dân-tộc yêu-chuộng
công-lý và hoà-bình trên thế-giới hãy cương-quyết lên án các hành-vi chiến-tranh
thô-bạo của Trung-Cộng nhằm vào một quốc-gia độc-lập và có chủ-quyền để buộc
Trung-Cộng phải tức-khắc chấm-dứt các hành-động nguy-hiểm đó.
Làm ngơ để cho Trung-Cộng
tự-do tiến-hành cuộc xâm-lấn trắng-trợn này là khuyến khích kẻ gây-hấn tiếp-tục
theo-đuổi chính-sách bành-trướng của chúng và sự hiện-diện này đe-doạ sự sống
còn của những nước nhỏ đặc-biệt là những nước ở Á-Châu.
Trong suốt lịch-sử, dân-tộc
Việt-Nam đã đánh bại nhiều cuộc ngoại-xâm. Ngày nay, Chánh-phủ và nhân-dân VNCH
cũng nhất-định bảo-vệ sự toàn-vẹn lãnh-thổ quốc-gia”.
… Xin đặt bối cảnh chưa
rõ ràng của cuộc chiến đang diễn ra lúc đó và cả ý đồ chính trị lúc ấy để loại
trừ những chi tiết về số tàu hai bên, bên nào khai hỏa trước trong tuyên cáo
này.
Sau 47 năm, sự việc cụ thể đã tương đối rõ.
Chỉ biết rằng bốn tàu chiến
của Hải quân VNCH tham gia trận hải chiến này thật sự không bất ngờ khi lâm trận.
Sự việc diễn ra như một tất yếu sau khi Mỹ – Trung bắt tay năm 1972 để kiềm chế
Liên Xô, ngăn chặn Liên Xô lập căn cứ hải quân trên Biển Đông.
Trước đó, ngày 11-1-1974,
tức 19 tháng Chạp năm Quý Sửu, chỉ bốn ngày nữa là đưa Ông Táo về Trời, Trung
Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên đảo Hoàng Sa; đồng thời đưa nhiều tàu
đánh cá có vũ trang và tàu chiến xâm nhập vùng đảo này.
Rõ ràng họ chọn thời điểm
giáp tết để hành động không phải ngẫu nhiên. Bởi đây là tính toán của hệ thống
“chóp bu” cao nhất của Trung Quốc lúc đó: Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu
Bình…
Kinh nghiệm lịch sử những
năm gần đây cho thấy Trung Quốc thường chọn thời điểm mùa xuân, trước hoặc sau
tết âm lịch để tấn công Việt Nam: 17-2-1979 (21 tháng Giêng năm Kỷ Mùi),
14-3-1988 (27 tháng Giêng năm Mậu Thìn)…
Ngày 12-1-1974, ngoại trưởng
VNCH Vương Văn Bắc tuyên bố cực lực bác bỏ, lên án hành động xâm lăng gây hấn của
Trung Cộng; đồng thời Bộ tư lệnh Hải quân VNCH khẩn cấp đưa các chiến hạm ra
đây.
Cụ thể, theo Phó đề đốc Hồ
Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải, “Ngày 15-1-1974, tuần dương hạm
HQ-16 Lý Thường Kiệt, hạm trưởng là trung tá Lê Văn Thự, được lệnh đưa địa
phương quân thuộc tiểu khu Quảng Nam và nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa để thay
thế toán đang ở ngoài đó hết nhiệm kỳ”.
Ở đó, họ đã thấy vài thuyền
cá của Trung Quốc. Đảo Quang Hòa đã có người Trung Quốc.
Trưa 16-1, HQ-16 lại thấy
“một chiến hạm Trung Quốc xuất hiện trong vùng”.
Khu trục hạm HQ-4 Trần
Khánh Dư, hạm trưởng là trung tá Vũ Hữu San vừa tuần tiễu biển vùng 1 xong, đã
vào bờ. Anh em trên tàu đang tính sẽ mua sắm Tết gì cho gia đình thì bất ngờ nhận
thông tin khẩn cấp tiến ra Hoàng Sa. Trên tàu, ngoài 174 lính của tàu, còn có
thêm một trung đội Biệt hải.
Tối 16-1, HQ-4 quay mũi
tàu tiến ra Hoàng Sa. Trưa 17-1, HQ-4 có mặt cùng HQ- 16 tại đây.
HQ-4 là chiến hạm thuộc lớp
hiện đại nhất thời điểm ấy của Hải quân VNCH. Trước đây, nó là tàu hộ tống USS
Forster của Hải quân Mỹ từ 1944, năm 1971 bàn giao cho Hải quân VNCH. Tàu dài
93 m, rộng 11,15m, choán nước 1.590 tấn; vận tốc 22 hải lý/giờ (39 km/giờ); tàu
có tầm hoạt động 16.900 km khi chạy ở tốc độ tiết kiệm 22 km/giờ.
HQ-4 có hai pháo 76 ly, một
số súng 20 ly. Theo hồi ký ông Lữ Công Bảy, hạ sĩ quan phụ tá trưởng ngành hàng
hải kiêm trưởng khối hành quân trên tàu HQ-4, hệ thống nạp đạn và bắn của hải
pháo 76 ly điều khiển bằng điện. Thủy thủ đoàn 170 người.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/01/VHS.jpg
Hạm trưởng HQ-4 Vũ
Hữu San. Ảnh: internet
Tối 17-1, HQ-10 Nhật Tảo
và HQ-5 Trần Bình Trọng từ Đà Nẵng cũng tiến ra Hoàng Sa. Hạm trưởng HQ-5 là
trung tá Phạm Trọng Quỳnh.
Hạm trưởng HQ-10 là thiếu
tá Ngụy Văn Thà. HQ-5 là soái hạm (tàu chỉ huy) của chiến dịch Hoàng Sa nên có
đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy trận hải chiến này.
HQ-5 và HQ-16 tương tự
nhau, cùng là tuần dương hạm; dài 94,72m, rộng 12,52m, choán nước 1.766 tấn (tối
đa là 2.800 tấn), vận tốc tối đa 18 hải lý/giờ (34 km/giờ). Vũ khí trên tàu gồm
một pháo 127 ly trước mũi; một pháo 40 ly đôi ở sân thượng phía trên khẩu 127
ly; hai khẩu 40 ly hai bên hông và hai khẩu 20 ly hai bên hông đài chỉ huy. Thủy
thủ đoàn HQ-5 khoảng 200 người.
HQ-10 là hộ tống hạm, chiến
hạm nhỏ nhất và yếu nhất của VNCH trong cuộc hải chiến. Nó vốn là tàu quét mìn
của Hải quân Mỹ, hạ thủy năm 1943, chuyển giao cho VNCH năm 1964; chỉ dài
56,24m, rộng 10m, choán nước 650 tấn, vận tốc tối đa 14 hải lý/giờ (26 km/giờ).
HQ-10 có 1 pháo 76 ly ở phía mũi, 2 súng 40 ly hai bên hông, 4 súng 20 ly đôi ở
hai bên đài chỉ huy. Vận tốc tàu đã chậm, khi ra Hoàng Sa, HQ-10 đã hư một
trong hai máy. Nhưng HQ-10 ra Hoàng Sa vì lúc đó nó gần Hoàng Sa nhất so với
các tàu khác.
Theo nhiều ghi chép, do
tàu nhỏ, yếu, hư một trong hai máy nên đêm 18-1, HQ-10 mới ra tới Hoàng Sa.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/01/HQ44.jpg
12 tấm hình được chụp từ HQ-4
Tư lệnh Hồ Văn Kỳ Thoại
“chỉ định trung tá Vũ Hữu San giữ chức vụ chỉ huy chiến thuật (OTC-officer in
tactical command) phân đội hoạt động vùng Hoàng Sa, gồm tuần dương hạm HQ-16 và
khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư”.
Trung tá Vũ Hữu San là
con cả cụ Vũ Hữu Soạn, trong ngõ Con Mắt (nay là hẻm 766 Cách Mạng Tháng Tám,
Tân Bình).
TÌNH BẠN ĐẸP ĐẼ CỦA GIA
ĐÌNH CÁC VỊ TÁ NGÕ CON MẮT, TRONG ĐÓ CÓ HẠM TRƯỞNG HQ-4 VŨ HỮU SAN – CON CỤ VŨ
HỮU SOẠN
Đi từ đầu ngõ Con Mắt vào
chừng 50m là gặp ngã tư chòi canh cháy (nay là trạm dân phòng). Đi tiếp chừng gần
100m, bên trái là nhà giò chả của diễn viên Tập ‘lùn’ (từng đóng nhiều phim “bất
đắc dĩ” như “Triệu phú bất đắc dĩ” trước 1975). Cách nhà anh Tập hai căn là nhà
cụ Soạn, rồi tới nhà Cụ Bùi Trọng Thúc, ba ông Bùi Đại Hưng (Hưng “điên”), ông
nội MC Đại Nghĩa hiện nay.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/01/VHS2.jpg
Gia đình 10 người con của ông bà cụ Soạn bên Mỹ sau
1975. Ông San, con trai cả đứng đầu, bên cạnh cha mẹ – Ảnh gia đình
Bên kia đường, cách ba, bốn
nhà có nhà cụ Thuần, ba của trung tá VNCH Nguyễn Văn Nhã.
* Cụ Thuần với cụ Thúc là
bạn thân từ hồi là sĩ quan Đông Dương, trong Quân đoàn Pháp chiếm đóng Thượng Hải,
Thiên Tân bên Tàu. Thời cụ Thúc là quan hai cảnh sát (chef adjudant de la
police de shanghai) trong vùng tô giới của Pháp thì cụ Thuần là quan một,
thông-dịch viên Hán – Pháp cho nhà cầm-quyền Pháp tại thành phố Thiên Tân. Vậy
nên cụ Thúc và cụ Thuần coi nhau anh em với nhau, giỗ chạp, tết nhất đều có
nhau.
Cụ Soạn và cụ Thuần cũng
là bạn bè thân thiết như anh em suốt từ lúc cùng đơn vị trong quân ngũ thời
Liên bang Đông Dương. Khi cụ Thuần huấn luyện quân sự cho giáo dân Công giáo
Khu tự trị Bùi Chu, gia đình cụ Soạn chạy lánh nạn chiến tranh đến đây, được cụ
Thuần che chở, đùm bọc. Khi Quốc gia Việt Nam (tiền thân của VNCH) của Quốc trưởng
Bảo Đại thành lập, cả cụ Thuần lẫn cụ Soạn là những sĩ quan đầu tiên.
Khi cụ Thuần tình nguyện
học khóa sĩ quan trừ bị đầu tiên ở Hà Nội, ra trường năm 1950 (thiếu úy trẻ nhất
của Quân đội Quốc gia Việt Nam lúc đó – 17 tuổi) ra trường, phân công về Khu
chiến Hưng Yên, cụ Soạn, lúc ấy là trung úy cũng đổi đến đó. Cùng đơn vị này
còn có đại úy Nguyễn Văn Thiệu (sau là tổng thống VNCH), trung úy Cao Văn Viên
(sau là đại tướng)…
* Cha Hạm trưởng HQ-4 Vũ
Hữu San là cụ Vũ Hữu Soạn, vốn là cựu quân nhân, từng là trung tá trưởng Phòng
1 – Tổng quản trị Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH. Quê cụ ở huyện Gia Khánh, nay
là Hoa Lư, Ninh Bình; cách nhà ông bà, cha mẹ tôi vài cây số.
Trước khi về ngõ Con Mắt,
nhà cụ trong cư xá Sĩ quan Trần Hưng Đạo (Bộ Tổng tham mưu – nay là Bộ Tư lệnh
Quân khu 7) trên đường Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ, Tân Bình) ít lâu. Ở đây,
ra vào cổng bị kiểm tra an ninh thắt ngặt quá, gia đình cụ dời về ngõ Con Mắt
(nay là hẻm 766 Cách Mạng Tháng Tám, Tân Bình). Khu này lúc ấy còn sình lầy, mặt
tiền nhìn ra cánh đồng rau muống An Lạc.
Cụ bảo vợ con: “Ở đây,
không sang trọng, oai vệ bằng bên kia nhưng thoải mái, tự do; hàng xóm xung
quanh lại toàn bà con ngoài Bắc mình”. Cụ vốn đạo Thờ Ông Bà, sau theo đạo Phật.
San, con trai cả cụ Soạn
và Tụng, con trai kế cụ Thuần cùng tuổi và cùng học trường Chu Văn An. Hôm con
trai cả cụ Thuần mất bên Mỹ, cụ Soạn lúc đó đã hơn 90 tuổi cũng từ Canada sang
viếng.
Con trai cả cụ Thuần là
trung tá Nguyễn Văn Nhã, cũng làm ở Bộ Tổng tham mưu; con trai thứ tên Tụng….
Chị Bùi Vũ, con gái cụ Soạn, em gái kế ông San bảo: “Gia đình cụ Thuần nghiêm cẩn.
Các con đều học giỏi, sống đạo đức”.
Khi ông San lập gia đình,
vợ trung tá Nhã sang phụ làm bánh cho đám cưới.
Quả là những tình bạn gắn
bó nhau cả đời.
* Cách nhà cụ Soạn ít
căn, bên trái là nhà ông bà cụ Lý Sóc, có hai con rể là đại tá, phó Lực lượng Đặc
biệt VNCH Trần Khắc Kính và thiếu tá thiết đoàn trưởng Sư đoàn 18 Trần Khắc
Nghiêm. Bên phải, cũng cách ít căn là nhà thiếu tá Đặng Sĩ Vĩnh, tự sát cả nhà
9 người chiều 30-4-1975.
Một cháu trai cụ Thuần lấy
con gái ông Kính, tức cháu gái cụ Lý Sóc.
Đối diện xéo, cách ít
căn, nhà cụ Lý Sóc là nhà thiếu tá Luận, có hai cô con gái. Một cô tên Ly, giỏi
văn chương và là người chứng kiến, viết lại rõ nhất vụ tự sát 9 người của gia
đình thiếu tá Đặng Sĩ Vĩnh.
* Ông bà cụ Soạn 10 con,
cả 10 đều đều học hành giỏi giang, có học vị. Hải quân Trung tá Vũ Hữu San là
con cả, vợ dạy Quốc gia Nghĩa Tử (nay là trường nghề Lý Tự Trọng).
Ông San giống tính bố: cứng
cỏi, cương trực; sống thanh bạch, không uống rượu, hút thuốc và không bao giờ
“ăn bẩn”.
Em gái ông San là bà Bùi
Vũ bảo: “Anh San rất règle (mực thước), không có ngoại lệ, phải nói là vì kỷ luật
Hải quân là như thế. Tuy vậy anh ấy lại là người con trai trưởng rất gương mẫu,
chưa bao giờ bị cha mẹ phải la mắng lấy một lần. Đứa con thứ nhì bị thành kiến
nói là ương ngạnh khó dạy bảo nhất là tôi nhưng cũng không dám hó hé một tiếng
với anh San. Chín đứa em đều kính nể ông anh cả, không đứa nào dám cãi anh
San”.
Cũng theo bà Bùi Vũ, tết
nhất, gia đình chỉ lo chuyện cúng gia tiên, mừng tuổi cha mẹ, lì xì con cháu;
chưa bao giờ ăn tết linh đình… Ông San là con cả càng gương mẫu, ăn uống thường
sơ sài theo câu “ăn để mà sống, chứ không phải sống để mà ăn”. Cả đời hình như
ông San chưa tỏ ý thích món ăn nào cả và ăn gì cũng không bao giờ ăn nhiều; có
lẽ ông nghĩ rằng chỉ ăn no 70 – 80% thôi để thân thể được nhẹ nhõm thảnh thơi
và sống lâu như cha mẹ.
(Ông cụ Soạn mới mất
2018, 104 tuổi. Bà cụ Soạn hiện đã 106 tuổi, còn khỏe, mình mẫn, đọc sách báo
không càn kính).
Trước 1975, có dịp tết cụ
Soạn ghé nhà tôi gặp ba tôi trên đường Thoại Ngọc Hầu. Lúc đó tôi còn con nít
nên chỉ nhớ mài mại là cụ Soạn nghiêm nhưng vui vẻ; nói chuyện rổn rảng.
Trong gia đình, như cha,
ông San lấy vợ rồi là một đời chung thủy, dù tính ông vốn nóng, cái gì ra cái
đó. Khi nguy khốn, như trong Hải chiến Hoàng Sa, tính cách đó bộc lộ rất rõ.
TRƯỚC 6 GIỜ SÁNG 19-1
Quần đảo Hoàng Sa gồm 130
đảo san hô, mỏm đá ngầm và bãi cát nằm rải rác trên 5.800 dặm vuông trên Biển Đông,
cách gần đều cảng Đà Nẵng của Việt Nam (200 hải lý) và đảo Hải Nam của Trung Quốc
(162 hải lý). Diện tích của toàn quần đảo (chỉ tính mặt đất) khoảng 3 dặm
vuông. Hầu hết các đảo hợp thành nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) về phía
đông bắc và nhóm đảo Nguyệt Thiềm/Lưỡi Liềm (Crescent Group) về phía tây, cách
nhau khoảng 39 hải lý. Đảo Phú Lâm (Woody island) thuộc nhóm An Vĩnh lớn nhất
trong các đảo thuộc Hoàng Sa, có diện tích khoảng hơn 5km2 (530 hecta).
VNCH tiếp quản nhóm đảo
Nguyệt Thiềm/Lưỡi Liềm từ năm 1954. Trung Quốc kiểm soát nhóm đảo An Vĩnh và đảo
Phú Lâm vào năm 1956. Năm 1959, với hỗ trợ của chính quyền Trung Quốc, ngư dân
Trung Quốc từng đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Duncan) nhưng Hải quân VNCH đã đuổi họ
đi.
… Trong hồi ký của mình,
đại tá Hà Văn Ngạc viết: “Soái hạm HQ-5 đến lòng chảo Hoàng Sa (lúc 15g chiều
18-1) đã thấy lực lượng biệt hải đổ bộ trên tàu HQ-4 và HQ-16 đang kiên cường
trấn giữ các đảo Hữu Nhật (Robert), Quang Ảnh (Money), Duy Mộng (Drummond).
Phía đảo Quang Hòa, tàu Trung Quốc đang lờn vờn bên ngoài (tất cả thuộc nhóm đảo
Nguyệt Thiềm/Lưỡi Liềm)”.
Thực tế ngay sau đó, lực
lượng Trung Quốc đã đổ bộ phía Bắc đảo Quang Hòa.
Đêm 17 rạng 18-1, hai bên
đã đấu khẩu nhau, cùng xác nhận chủ quyền ở Hoàng Sa. Sáng 18-1, HQ-4 dùng mũi
tàu ủi thẳng tàu cá 407 khi trên tàu lố nhố “ngư dân” có đủ thượng liên, AK-47.
407 bỏ chạy. Bên kia, HQ-16 cũng quyết liệt đuổi tàu cá vũ trang 402.
Chiều 18-1, ba chiến hạm
HQ-4, HQ-5, HQ-16 tiến về đảo Quang Hòa. Hai tàu 271, 274 cản đường. Các tàu tạm
lui về nhóm đảo Hoàng Sa. Suốt đêm 18 rạng 19-1, các tàu Trung Quốc vẫn cứ lởn
vởn quanh đảo Hoàng Sa.
Tính hạm trưởng San vốn
quyết liệt, ông yêu cầu anh em HQ-4 phát còi hơi vang động và rọi đèn hồ quang
chói rực vào các tàu Trung Quốc khiến họ buộc phải rút.
Tổng thống VNCH Nguyễn
Văn Thiệu chỉ thị: “Tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm đối phương ra khỏi
lãnh hải VN. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến
hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự toàn vẹn
của lãnh thổ VN”.
23g30 đêm 18-1, đại tá Hà
Văn Ngạc gửi điện thượng khẩn đến các hạm trưởng: “Quy luật khai hỏa được căn cứ
trên hai trường hợp: Nếu địch khai hỏa trước sẽ phản ứng bằng hỏa lực cơ hữu
tiêu diệt càng nhiều càng tốt, ưu tiên hỏa lực vào các chiến hạm quan trọng như
Kronstadt hoặc các tàu lớn. Nếu địch tỏ vẻ ôn hòa, sẽ dè dặt và cảnh giác tối
đa với phản ứng ôn hòa tương ứng, đồng thời tiến hành nhiệm vụ tái chiếm đảo
Quang Hòa bằng thương lượng, sau đó cắm quốc kỳ lên đảo…”.
Chưa bên nào nổ súng.
Nhưng tình hình hết sức căng thẳng suốt đêm 18-1.
3g sáng 19-1, Hạm trưởng
San yêu cầu hạ sĩ quan giám lộ Lữ Công Bảy kéo chiến kỳ lên đỉnh cột cờ. Chiến
kỳ ngang 20cm dài 15m tung bay – như một thái độ.
CHÍ KHÍ VIỆT LẪM LIỆT TRONG HẢI
CHIẾN HOÀNG SA
6g sáng 19-1, hải đoàn
VNCH chia làm hai phân đoàn: phân đoàn Một gồm hai tàu tốt nhất HQ-4, HQ-5 đổ bộ
các nhóm biệt hải, hải kích tái chiếm đảo Quang Hòa (HQ-4 chỉ huy); phân đoàn
Hai gồm HQ-10, HQ-16 yểm trợ hải pháo, ngăn chặn tàu địch (HQ-16 chỉ huy).
Theo thượng sĩ giám lộ
tàu HQ-4 Lữ Công Bảy, “Khi đến gần đảo Quang Hòa, bằng ống dòm và mắt thường,
chúng tôi phát hiện doanh trại mới toanh có cờ Trung Quốc. Ở phía bắc đảo, hàng
trăm quân Trung Quốc đổ bộ ào ạt lên. Chúng núp sau các tảng đá chĩa súng vào
các biệt đội… Và rồi quân Trung Quốc đã nổ súng. Lúc 8g30, đại liên và cối 82 bắn
thẳng vào đội hình nhóm hải kích VN. Họ đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm. Hai
binh sĩ VNCH tử thương, hai bị thương”.
Phía Trung Quốc nổ súng
trước!
Phía VNCH đã có những người
lính Việt đầu tiên hy sinh.
Hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu
San yêu cầu: Tất cả sĩ quan, binh lính sẵn sàng quân trang, quân dụng chiến đấu
với nón sắt, áo giáp, áo phao, giày không cột dây…
9g15. Hai bên phát tín hiệu
tiếp tục đòi chủ quyền. Theo hồi ký của ông Bảy, lúc ấy hạm trưởng San tức giận,
“đỏ mặt quát ầm ĩ và đưa nắm đấm sang hướng tàu địch tỏ vẻ căm giận. Ông
ra lệnh cho chúng tôi không nhận tín hiệu nữa và thốt lên: Bọn bố
láo”.
Đúng kiểu nói Bắc
54.
Khoảng gần 10g, đại tá Ngạc
muốn pháo lên đảo để hỗ trợ việc tiếp tục đổ bộ. Hạm trưởng San không thống nhất
chuyện này. Lúc đó, theo ông Bảy, “Hạm trưởng San tức tối liệng tổ hợp
nghe xuống sàn đài chỉ huy chiến hạm. Ông phân bua với thuộc cấp trên
đài chỉ huy: Mấy thằng kia nó để cho mình yên à”. Vì theo ông, “Muốn
đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực lượng trên biển
rồi sau đó mới tính đến việc đổ quân. Hiện nay tàu địch gấp đôi tàu
ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng tới giờ đầy trên đảo, ta chỉ có hai
trung đội thì làm sao thành công được”.
Ông San nói: “Tôi là
quân nhân, tôi chấp nhận hy sinh vì Tổ quốc nhưng chuyện này hết sức
vô lý”. Rồi ông cúp máy và ra lệnh: “Tất cả các khẩu súng nhắm
thẳng vào tàu địch”, không chấp hành lệnh bắn vào bờ.
Thông tin liên tục báo
ngay về Trung tâm hành quân ở Đà Nẵng. Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại phát quân lệnh:
“Tùy nghi khai hỏa!”.
* 10g20 sáng lịch sử
19-1-1974, đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy hải chiến phát lệnh: “Khai hỏa!”.
Bốn chiến hạm HQ-4, HQ-5,
HQ-10, HQ-16 rùng rùng tác xạ mãnh liệt vào các tàu chiến Trung Quốc.
Soái hạm HQ-5 bắn trúng
Kronstadt 274 ngay loạt đạn đầu tiên. Nó lảo đảo và phản pháo nhưng không gây
thiệt hại cho HQ-5.
Tuy nhiên, phía Trung Quốc
lại cho rằng HQ-4 là soái hạm nên cả hai tàu Kronstadt 271, 274 đều tập trung
vào đây.
Hồi ký của ông Bảy ghi:
“Như đã chuẩn bị trước, Hạm trưởng San ra lệnh “bắn”, đồng thời ông cũng ra lệnh
(lúc đó máy tàu đang ở vị trí stop) hai máy tiến full (bỏ qua thông lệ tiến 1,
tiến 2, tiến 3); hết tay lái sang phải. Chiến hạm chồm lên phía trước và
nghiêng mình sang phải nên đã tránh được loạt đại bác đầu tiên của địch.
Chiến hạm di chuyển với tốc
độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì tiếng dội
của các khẩu đại bác vừa khai hỏa. Hạm trưởng San ra lệnh hai máy tiến blanch hết
tay lái sang trái, chiến hạm chạy uốn lượn như con rắn, hết phải rồi hết trái
tránh được đạn đại bác của địch. Đạn nổ, âm thanh hỗn độn, các cột nước bốc lên
chung quanh tàu, tiếng đạn rít lên sau thân tàu, trước mũi tàu, mạn trái, mạn
phải ù… vèo vèo… ầm”.
Năm 2014, kể lại giây
phút ấy với báo Tuổi Trẻ, trung úy Roa, người có mặt trên đài chỉ huy HQ-4 cho biết:
Chính nhờ hạm trưởng San cho tàu vận chuyển linh hoạt nên tránh được một trái
pháo của tàu đối phương bắn vào đài chỉ huy, tuy nhiên nó lại bay vào ống khói.
Mảnh đạn văng vào đài chỉ huy trúng ngay chân trung úy Roa. Các mảnh đạn khác
cũng phá sụp chân màn hình radar làm nó không hoạt động. Tuy nhiên, trung úy
Roa vẫn trụ vững ở vị trí theo dõi tàu địch. Dây liên lạc sĩ quan hải pháo với
các khẩu đội đã bị mảnh đạn cắt đứt, không liên lạc được.
Phía bên kia, trong làn đạn
76,2 li của HQ-4 Trần Khánh Dư, chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn bốc cháy dữ dội.
Xạ thủ 85 ly của tàu
Trung Quốc Vương Tuấn Minh, trên Ordinance (tờ báo nghiên cứu vũ khí của Trung
Quốc) kể: “Lúc 271 và 274 cận chiến với HQ-4, chính ủy và hạm phó tàu
anh (274) bị bắn chết. 274 không điều khiển nổi. Còn soái hạm 271 trúng
đạn, Tằng Đoan Dương chết…”.
Ở phân đoàn 2, theo hạm
trưởng Lê Văn Thự, HQ-16 “quay ngang tàu đưa phía hữu mạn của tàu hướng về ba
tàu Trung Quốc. Với lợi thế là sử dụng được tối đa hỏa lực nhưng cũng có bất lợi
là hứng đạn nhiều hơn”. Các khẩu pháo của HQ-16 bắn liên tục.
Thật kỳ diệu, dù là tàu
nhỏ nhất, lại hư một máy, nhưng ngay sau lệnh khai hỏa, các khẩu đội pháo trên
chiếc HQ-10 Nhật Tảo cũng trực xạ vang rền.
Trục lôi hạm 389 của
Trung Quốc phát nổ, bốc cháy. Trục lôi hạm 396 gần đó cũng trúng đạn, hệ thống
lái bị hư hại toàn toàn. Nó liêu xiêu trên biển.
Các báo cáo của Hải quân
Trung Quốc sau đó cũng thừa nhận hai chiến hạm 389 và 396 của mình đã trúng đạn
ngay từ phút đầu: “Trong lúc chiếc hộ tống hạm HQ-10 bị trọng thương, trục lôi
hạm 389 cũng bị chiến hạm Việt Nam bắn hư hại nặng. Đài chỉ huy hoàn toàn bị
tiêu hủy. Thủy thủ đoàn nhiều người chết, bị thương. Hầm chứa đạn bị bắn thủng
một lỗ lớn… Hầm máy cũng bị bắn trúng nên cháy dữ dội khiến tàu vô nước, bị
nghiêng, không còn dưỡng khí khiến cơ khí phó và năm cơ khí viên tử thương tại
chỗ”.
Tuy nhiên, ngay tình thế
đang áp đảo, khẩu đội pháo chính phía trước chiến hạm HQ-10 Nhật Tảo lại kẹt đạn.
Khẩu 20 li đôi cũng kẹt đạn do bắn dồn dập. Máy tàu yếu khiến tàu không xoay
chuyển kịp để dùng pháo phía sau. Trong nhật ký trận Hoàng Sa, chuẩn úy Tất
Ngưu, sĩ quan phụ trách khẩu 20 li và cối 81 li phía sau tàu, kể đang lúc ác liệt
thì đến khẩu 20 li đôi cũng kẹt đạn.
Cả hai trục lôi hạm 389
và 396 của Trung Quốc tận dụng cơ hội này trả đũa. Chuẩn úy Tất Ngưu kể ông và
đồng đội đang cố gắng tác xạ phía sau thì bất ngờ nghe tiếng rầm. HQ-10 Nhật Tảo
và chiếc 389 đụng nhau. Từ đài chỉ huy, đại úy hạm phó Nguyễn Thành Trí dùng
súng M16 bắn xối xả sang tàu đối phương. Có người cho rằng vì cả hai máy tàu
lúc này đều bị bắn hư nên chúng tự trôi vào nhau…”.
Tàu HQ-16 cũng trúng đạn ở
hầm đạn 127 li phía trước mũi nên nước biển tràn vào mỗi khi tàu chúc xuống.
Tàu bị nghiêng dần sang một bên. Hỏa lực chính hết tác xạ được, mất khả năng
chiến đấu. Trung tá Thự cho tàu tạm lùi khỏi lòng chảo Hoàng Sa.
Tàu chiến hai bên đều tơi
tả. Đến lúc này, số thương vong hai bên ngang ngửa nhau. Cách đó vài chục hải
lý, hai tàu chống ngầm 281, 282 còn nguyên vẹn lực lượng, khí tài quân sự đang
tiến sát khu vực chiến sự. Hàng chục tàu khác từ đảo Hải Nam được chuẩn bị tư
trước cũng sẵn sàng tiến ra.
Các tàu VNCH được lệnh triệt
thoái.
Trong khu vực hải chiến
chỉ còn lại tàu HQ-10 Nhật Tảo không còn khả năng di chuyển. Thân tàu chi chít
vết đạn. Thiếu tá hạm trưởng Ngụy Văn Thà trúng thương ngay cổ đã hy sinh lẫm
liệt ngay trên tay lái tàu.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/01/HQ-1024x576.jpg
Thiếu tá Ngụy văn Thà và Đại úy Nguyễn Thành Trí. ẢNh:
internet
Đại úy hạm phó Nguyễn
Thành Trí kêu anh em lên boong, yêu cầu rời tàu. Ông Trần Văn Hà, thủy thủ cơ
khí nhớ lại: “Một số anh em như Lê Văn Tây, Ngô Văn Sáu… nhất quyết đòi ở lại với
tàu. Đó là những người đã bị thương nặng và cả một số pháo thủ chưa bị gì”.
“Thôi, chiến hữu xuống bè
đi, để chúng tôi ở lại” – họ vừa nhắn nhủ lời chia tay vừa xem cơ số đạn còn lại.
Trong Nhật ký Hoàng Sa,
chuẩn úy Tất Ngưu, sĩ quan phụ trách các khẩu đội pháo phía sau chiến hạm Nhật
Tảo, kể ông là một trong những người nhảy xuống biển sau cùng. Trước khi nhảy,
ông gọi hạ sĩ Lê Văn Tây rời tàu. Viên hạ sĩ này trả lời dứt khoát: “Tôi ở lại
ăn thua đủ với bọn Tàu”.
Hai tàu chống ngầm 281,
282 đã đến, bắn xối xả trả thù vào chiếc Nhật Tảo. Đứng từ đảo Hữu Nhật, trung
sĩ Trịnh Văn Quý, thuộc nhóm đổ bộ của HQ-4 đã chứng kiến cảnh chiếc Nhật Tảo oằn
mình dưới lửa đạn của hai tàu chiến Trung Quốc mới đến còn nguyên vẹn.
Thật kỳ lạ, đến 8g sáng
20-1, trung sĩ Trịnh Văn Quý mới thấy Nhật Tảo chìm hẳn, gần đảo Hữu Nhật.
Những người lính Việt
trên HQ-10 Nhật Tảo chỉ còn 21 người. Chiến hạm HQ-10 Nhật Tảo đã nằm lại dưới
đáy biển Hoàng Sa cùng hạm trưởng Ngụy Văn Thà, hạm phó Nguyễn Thành Trí và anh
em binh sĩ của mình. Họ đã sống những giây phút cuối cùng bi tráng, lẫm liệt vì
Tổ quốc, Dân tộc Việt.
TRUNG QUỐC 6, 8, 11 HAY 40
TÀU?
Tuyên cáo ban đầu của Bộ
Ngoại giao VNCH, phía Trung Quốc có 11 tàu.
Trong khi đó, tất cả các
ghi chép sau này của người trong cuộc chỉ ghi nhận đối đầu trực tiếp với 4 tàu
chiến VNCH trong hải chiến là 6 tàu Trung Quốc. Cụ thể là 2 tàu 271, 274 chống
ngầm hạng nhẹ nhái lớp Krondstadt của Liên Xô, 274; 2 tàu 389, 396 quét thủy
lôi nhái tàu lớp T-43 của Liên Xô và 2 ngư thuyền 402, 407 chở đầy lính ngụy
trang.
Tuy nhiên, do đã tính
toán từ trước, ngay khi trận chiến kết thúc, chỉ ít lâu sau, 2 tàu chống ngầm
281, 282 đã có mặt và bắn chìm HQ-10 khi nó vật vờ trên biển và hầu hết lính
trên tàu đã rời tàu. Nghĩa là nếu trận chiến tiếp tục thêm, hai tàu này rõ ràng
có mặt ngay.
Theo BBC Tiếng Việt, một
tài liệu của CIA ngày 21-1-1974 sau này công bố nhận định Trung Quốc “rõ ràng
đã có chuẩn bị” cho diễn biến này.
Trong bất kỳ một cuộc chiến
nào, việc chuẩn bị lực lượng dự bị sẵn sàng tiếp viện, hỗ trợ cho một trận
đánh, một chiến dịch là điều đương nhiên và bắt buộc của các nhà cầm quân.
Sự chuẩn bị ấy ra sao?
Năm 2017, Carl O. Schuster, cựu sĩ quan Hải quân Mỹ 25 năm công tác, với những
năm cuối cùng phục vụ trong ngành tình báo quân sự; tham gia giảng dạy chương
trình Ngoại giao và Khoa học Quân sự tại Hawaii Pacific University cho biết:
(Do e ngại Sài Gòn sẽ
tăng cường quân cho các đồn còn lại trên các đảo, một hạm đội đã lên đường ngay
trong ngày 19-1) “1 tàu khu trục (Nam Ninh), 5 tàu phóng lôi, và 8 tàu tuần tra
loại nhỏ. Được tổ chức thành 3 đội tàu đổ bộ và vận tải, các tàu này chở 500
lính thuộc 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội dân quân và 1 nhóm trinh sát vũ trang.
Tàu Nam Ninh, vốn là một tàu hộ tống của Nhật trước đây là soái hạm của đợt
tăng cường này”.
Tổng lực lượng này là 14
tàu. Cộng với 8 tàu vừa hải chiến là 22 tàu. Với “truyền thống biển người” quen
thuộc của mình, chúng ta không lạ điều này.
Và khi kế hoạch tái chiếm
Hoàng Sa của VNCH đang chuẩn bị, theo ông Theo ông Nguyễn Thành Trung, khi đó
là trung úy phi công Không lực VNCH, có khoảng 40 tàu cỡ nhỏ ở Hoàng Sa. Trên
báo Thanh Niên ngày 10-1-2014, ông Trung cho biết: Ngay sau hải chiến, “máy bay
do thám RF-5A được điều ra Hoàng Sa để chụp ảnh. Hình ảnh thu được cho thấy
Trung Quốc tập trung tàu quanh Hoàng Sa khá nhiều. Chúng tôi cho phóng to hình ảnh
ra và được chỉ huy đơn vị tập trung hết 120 phi công lại nghe thuyết trình.
Chúng tôi đếm từng chiếc tàu một, thậm chí số hiệu tàu chúng tôi cũng đọc được.
Các phi công đếm được khoảng 40 tàu, xác định được vị trí và hướng di chuyển của
số tàu đó”.
Ông Trung khẳng định:
““Các phi đoàn phải làm sạch, nhấn hết xuống biển và tôi đảm bảo là 100% sau một
ngày tất cả 40 chiếc tàu đó không còn chiếc nào sống sót. Máy bay mà đánh tàu
thì quá dễ, tàu nó chạy chậm, tốc độ khoảng 20 hải lý/giờ thì không có cách nào
trốn được”.
Trước đó bốn ngày, trên
báo Tuổi Trẻ ngày 6-1, ông Trung kể: “Chuẩn bị cho trận đánh tái chiếm Hoàng Sa
với tinh thần “Trân Châu cảng” vừa khẩn cấp vừa náo nức. Trước ngày vào chiến dịch,
tất cả anh em phi công của các phi đoàn F-5 đều ký dưới lá đơn “Xin được chết
cho Hoàng Sa”.
Khi tất cả các phi đoàn
F.5 được lệnh tập trung ở Đà Nẵng, người Mỹ vẫn chưa biết đến kế hoạch này.
Nhưng chuẩn bị đến giờ G thì kế hoạch đã bị chặn lại. Cũng như trước đó, hạm đội
7 của Mỹ vẫn án binh bất động không hề có một động thái nào để cứu giúp binh sĩ
VNCH.
Tất cả hào khí háo hức, sự
chuẩn bị chu toàn của anh em nhằm đánh một trận “sạch không kình ngạc” chiếm lại
quần đảo Hoàng Sa từ tay Trung Quốc bỗng chốc tan thành mây khói từ “lệnh của
trên”.
Theo BBC Tiếng Việt, từ
giải mật của CIA, ngày 28-1-1974, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi điện cho tòa đại sứ Mỹ ở
Sài Gòn, nói rằng có một bản tin của UPI viết các tàu chiến Nam Việt Nam đã
“bao vây” Hoàng Sa, sau khi đã bị mất đảo về tay Trung Quốc.
Bức điện nói “lo lắng sâu
sắc về rủi ro phía Việt Nam bày tỏ giận dữ về Hoàng Sa bằng hành động quân sự
phi lý với Trung Quốc”. Bức điện yêu cầu Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn “kiềm chế” chính
quyền VNCH.
Trên BBC Online ngày
14-1-2014, Hoàng Đức Nhã, bí thư kiêm tham vụ báo chí, thư ký và cũng là cháu của
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhà ở Ông Tạ (khu cư xá Ngân Hàng, đối diện trường
Ngô Sĩ Liên hiện nay), khẳng định: “Hoa Kỳ đã có sự thông đồng với chính quyền
Bắc Kinh khi đó và đã làm ngơ trước hành động của Trung Quốc”.
“CON ĐÃ LÀM HẾT SỨC MÌNH,
VẬY LÀ ĐƯỢC RỒI”
Sau Hải chiến Hoàng Sa,
Phó đề đốc VNCH Lâm Ngươn Tánh xuống thăm HQ-4, xem chiến hạm thiệt hại ra sao.
Khi đó, nước các hầm đáy tàu vẫn còn chảy ra khá nhiều từ những lỗ thủng quanh
chiếc khu trục hạm Trần Khánh Dư này.
Tướng chỉ huy phía Trung
Quốc trong hải chiến này là Ngụy Minh Sâm đã huy động hai tàu 271, 272 tập
trung hỏa lực vào HQ-4 do nghĩ nó là soái hạm (tàu chỉ huy). Thân tàu HQ-4 chi
chít vết đạn nhưng nó vẫn tự lực về Đà Nẵng, thậm chí còn dìu một tàu bạn.
Đó có thể là lý do Ngụy
Minh Sâm không được đề bạt, phải giữ nguyên chức vụ (phó) như cũ, sống và chết
trong im lặng ở tuổi 88 vào năm 2007. Văn bản phía Trung Quốc ghi: “Tây Sa
(Trung Quốc gọi Hoàng Sa là Tây Sa) hải chiến, tiền tuyến tổng chỉ huy Ngụy
Minh Sâm tướng quân, 1937 niên 10 nguyệt tham gia Bát lộ quân, Tây Sa hải chiến
hậu một hữu đắc đáo đề bạt, đáo ly hưu thì y nhiên thị phó quân chức” (tổng chỉ
huy Tây Sa hải chiến Ngụy Minh Sâm tháng 10-1937 tham gia Bát lộ quân. Sau Tây
Sa hải chiến, đến lúc về hưu vẫn phó quân chức”.
Ngày 20-1-1974, khi về tới
bến, hạm trưởng HQ-4 Trần Khánh Dư Vũ Hữu San phát biểu khi được hỏi cảm tưởng
về trận hải chiến: “Đây là dịp để HQ-4 chúng ta đánh đấm Tàu Cộng hả hê luôn!”.
Hạm phó HQ-4 Nguyễn Thành
Sắc nói cụ thể: “Hôm qua đụng trận, ba chiếc tàu Trung Cộng cứ cùng nhắm bắn
vào tàu tôi vì tưởng chiếc khu trục hạm HQ-4 này là O.T.C (tàu tổng chỉ huy). Họ
vận chuyển chiến thuật cách khoảng chừng 1.000 yard (0,9144m; 1.760 yard là một
dặm biển/hải lý – mile) và khi bị tàu mình bắn cháy thì nó tuôn khói màu mù mịt.
Nó chơi chiến thuật “hỏa mù” mà. Được hỏi về tinh thần chiến đấu của nhân viên,
hạm phó cho biết là rất khá và cũng vì họ căm thù bọn Tàu Cộng qua mấy lần bị
chúng khiêu khích. Cho nên khi lệnh khai hoả vừa ban ra chưa dứt thì đạn đã bay
vào tàu địch rồi!”.
Sau hải chiến, về nhà
thưa trình với cha, cụ Vũ Hữu Soạn. Người cha vốn nghiêm cẩn trong giáo dục con
cháu và cũng từng “vào sinh ra tử” trên chiến trường bao nhiêu năm chỉ nói gọn:
“Con đã làm hết sức mình, vậy là được rồi “.
VÀI NÉT VỀ VỊ HẠM
TRƯỞNG DÂN ÔNG TẠ
Hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu
San, sinh năm 1940 ở Đái Nhân, Hoa Lư, Ninh Bình; hồi nhỏ học các thầy Tăng,
Cao, Ngọc ở làng Cối, Nho Quan. Vào Nam, học Chu Văn An, rồi theo ban toán các
trường đại học ở Sài Gòn, Đà Lạt, Huế; tốt nghiệp Trường Sĩ quan Hải quân Nha
Trang (hai ngành chỉ huy, cơ khí) và Trường Chỉ huy Tham mưu Đà Lạt.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/01/VHS3-1024x768.jpg
Ông cụ Soạn mới mất 2018, 104 tuổi. Bà cụ Soạn hiện
đã 106 tuổi. Ông San đứng giữa, hàng sau – Ảnh gia đình
Ông là hạm trưởng nhiều
chiến hạm, chiếc cuối cùng là hạm chủ-lực của Hải quân VNCH: khu trục hạm HQ-4
Trần Khánh Dư.
Sau 1975, ở nước ngoài,
khi đã gần 40 tuổi, ông vẫn tốt nghiệp cử nhân cơ khí, theo học Post Graduate
School để thành chuyên gia tin học.
Thỉnh thoảng, rất bất ngờ
và thú vị khi ông cộng tác với giáo sư Nguyễn Khắc Kham về văn hoá. Và khi đã
cao tuổi, ông vẫn viết hàng loạt sách có giá trị về hàng hải, ghe thuyền và văn
hóa nước của người Việt:
– Lược sử tổ chức Hải
quân VNCH.
– Địa lý Biển Đông với
Hoàng Sa & Trường Sa (đã xuất bản ở Việt Nam).
– Vịnh Bắc Việt & chủ
quyền hải phận.
– Tài liệu Hải chiến
Hoàng Sa (đã xuất bản ở Việt Nam).
– Sơ lược hải sử và thủy
quân nước ta.
– Văn hóa nước.
– Chiến hạm và chiến đĩnh
VNCH.
– Ghe thuyền Việt Nam…
Lời cuối: Toàn bộ hình ảnh về Hải chiến Hoàng Sa mà chúng ta thấy hôm nay được
chụp từ HQ-4, theo chỉ đạo của Hạm trưởng Vũ Hữu San với anh em trên tàu. Đến
giờ chưa rõ ai là tác giả thực hiện chỉ đạo này.
-----------------------
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
.
40 năm Hoàng Sa: vượt qua bức tường im lặng
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-01-17
.
Những diễn biến đưa tới trận hải chiến Hoàng Sa
https://www.facebook.com/AnNamYakukohaiyo/posts/3695384367189002
.
Hoang Sa - 24 nam hai chien - Nguyet San DOAN KET, Austin ...
Bài nói chuyện ngày 17/1/1998 của HQ Trung Tá Vũ Hữu
San
cựu Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4
http://doanket.orgfree.com/hoangsa/vssannoi.html
.
Trận hải chiến
Hoàng Sa theo tài liệu Trung Cộng
Phần 1 Phần
2
Trần Ðỗ Cẩm & Vũ Hữu San - Biên Khảo
http://nguyenthaihocfoundation.org/lichsuVN/hs_tailieutrungcong1.htm
.
http://paracels.freetzi.com/tieusuVuHuuSan.htm
No comments:
Post a Comment