Bên
cạnh việc chống khủng bố, Hoa Kỳ cần một chiến lược chống nhiễu loạn thông tin
Brian
Raymond - Foreign Policy
Lê Minh Nguyên dịch
17/10/2020
Nếu chính phủ Hoa Kỳ muốn chiến thắng trong những
cuộc chiến tranh thông tin, thì các chiến thuật của thời Chiến Tranh Lạnh sẽ
không còn hữu hiệu được nữa.
Ngày 14/10, Facebook và
Twitter đã đưa ra quyết định xóa một câu chuyện đáng nghi ngờ của New York Post
khỏi các mạng của họ, nó đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi trong các trang
ý kiến của internet. Bài báo được đề cập đã cố tình tiết lộ về ảnh hưởng của ứng
cử viên tổng thống đảng Dân chủ cho con của ông là Hunter Biden, và những công
ty mạng xã hội khổng lồ (Facebook, Twitter…) đã nghi ngờ rằng những nội dung
tuyên bố trong bài báo chưa được kiểm chứng này lại dựa trên sự đánh cắp
(hacked) hoặc bịa đặt. Vài tuần trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, hành động
nhanh chóng và dứt khoát của Thung lũng điện tử (Silicon Valley) để đáp lại
thông tin sai lệch, thì hoàn toàn trái ngược với việc xử lý các email bị đánh cắp
từ chiến dịch tranh cử tổng thống của Hillary Clinton bốn năm trước.
Một tuần trước đó, vào
ngày 7/10, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ thông báo rằng họ đã dẹp gần 100 trang webs có
liên quan đến Quân đoàn Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran (Islamic Revolutionary
Guard Corps hay IRGC). Các trang webs này đã tham gia vào một chiến dịch thông
tin sai lệch toàn cầu, nhắm vào những người ở Hoa Kỳ cho đến ở Đông Nam Á với lập
luận tuyên truyền thân Iran. Nhưng không chỉ có chính quyền mới tham gia vào việc
chống lại kẻ thù trực tuyến: Một ngày sau, Facebook và Twitter báo cáo rằng họ
đã gỡ xuống hơn một chục mạng thông tin sai lệch, được sử dụng bởi các nhóm
chính trị hay được nhà nước hậu thuẫn ở Iran, Nga, Cuba, Saudi Arabia và Thái
Lan.
Nhìn vào bức tranh lớn của
những sự việc thì các sự kiện ngày 7 và 14 tháng 10 hầu như không đáng chú ý.
Trong những năm gần đây, các tổ chức tư nhân và chính quyền đã phải tăng cường
những nỗ lực chống lại các dư luận viên máy (botnets), các chốt nhiễu tin
(troll farms), và các hệ thống trí thông minh nhân tạo, đang tìm cách thao túng
môi trường thông tin trực tuyến hầu đạt được các mục tiêu chiến lược nhất định.
Sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016, những diễn viên này bị giám sát kỹ
lưỡng mà trước đây chưa từng có.
Nhưng khi không gian mạng
có thể là một mặt trận mới trong cuộc chiến chống lại thông tin sai lệch – cũng
như sự bất hòa xã hội mà nó có thể gieo rắc – thì thông tin sai lệch tự nó đã
là mối quan tâm thuộc về an ninh quốc gia trong nhiều thập kỷ; Chiến Tranh Lạnh
đa phần được tiến hành bằng cách cạnh tranh tuyên truyền các phiên bản của sự
thật. Và mối đe dọa về “tin giả” (fake news) thì không phải là một điều gì mới,
vì thế cách các nhà hoạch định chính sách đối phó hoặc cố gắng đối phó với nó
cũng vẫn theo lối cũ.
Chính sách cũ này giờ đây
thực sự trở thành vấn đề. Trong thời Chiến Tranh Lạnh, để chống lại thông tin
sai lệch phát ra từ Điện Kremlin, từ Đảng Cộng sản Trung Quốc và từ IRGC, cùng
những nước cộng sản khác, Hoa Kỳ dựa vào bài bản lúc đó và đã dẫn đến sự thành
công chống lại các hoạt động tuyên truyền của Liên Xô, được biết với tên gọi là
“các biện pháp tích cực” (active measures) trong những năm 1980s. Nhưng chiến
lược chống thông tin sai lệch này, giống như hầu hết các chiến lược khác được
phát triển vào những năm 1980s, hầu hết đã bị lỗi thời bởi bối cảnh truyền
thông đang phát triển và công nghệ mới nổi.
Giờ đây, nếu Hoa Kỳ muốn
có bất kỳ hy vọng nào để đi bước trước – cùng chấm dứt các nỗ lực gieo rắc hổn
loạn và hoài nghi của những đối thủ nhắm vào Hoa Kỳ – thì HK sẽ phải nghiêm túc
xét lại bài bản cũ của mình. Nhưng điều đó không thể thực hiện được nếu không
có các đại công ty trong công nghệ internet của Hoa Kỳ, vốn là trụ cột trong cuộc
chiến chống lại thông tin sai lệch.
Thật vậy, sự hòa giải giữa
chính quyền và công dân là điều cần thiết để hàn gắn những mối quan hệ rạn nứt
của thời kỳ hậu Snowden. Vào năm 2013, người thổi còi tố cáo Edward Snowden đã
rò rỉ tài liệu mật, cho thấy sự hợp tác rộng rãi giữa các công ty công nghệ Hoa
Kỳ và Cơ quan An ninh Quốc gia, gây ra phản ứng dữ dội từ các công ty công nghệ
và công chúng, họ than phiền việc thiếu các biện pháp bảo vệ quyền riêng tư cá
nhân trên internet.
Kể từ đó, sự ngăn cách giữa
Silicon Valley và cộng đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ ngày càng mở rộng – nhưng
giờ đây có những dấu hiệu cho thấy thuỷ triều đang thay đổi: Các công ty như
Facebook, Twitter và Google đang ngày càng hợp tác với các cơ quan quốc phòng
Hoa Kỳ để đào tạo các kỹ sư phần mềm tương lai, các chuyên gia an ninh mạng và
các nhà khoa học. Cuối cùng, khi lòng tin giữa lãnh vực công và tư được khôi phục
hoàn toàn, chính phủ Hoa Kỳ và Silicon Valley có thể cùng nhau xây dựng một mặt
trận thống nhất để đương đầu với tin tức giả một cách hiệu quả.
Thông tin nhiễu loạn đã
len vào radar an ninh quốc gia Hoa Kỳ ngay khi Ronald Reagan nhậm chức tổng thống
vào đầu năm 1981. Sau khi CIA bị công khai mất uy tín trong các phiên điều trần
của ủy ban Church Committee ở Thuợng Viện Hoa Kỳ – ủy ban này phơi bày các hoạt
động thu thập thông tin tình báo gây tranh cãi (và trong một số trường hợp là bất
hợp pháp) để chống lại các nhà lãnh đạo nước ngoài cũng như công dân Hoa Kỳ –
TT Reagan đã bổ nhiệm ông William Casey để cải tổ CIA. Khi ông Casey chuyển đến
văn phòng tầng 7 của ông tại Langley, ông được coi là một nhà diều hâu, ông đã
rất thất vọng khi biết rằng CIA hầu như không thu thập được thông tin về “các
biện pháp tích cực” tấn công thông tin của Liên Xô – và thậm chí còn không làm
gì để chống lại chúng.
Casey đã tổ chức lại các
văn phòng quan trọng bên trong Tổng cục Tình báo của CIA (CIA’s Directorate of
Intelligence) hầu tập trung vào việc hiểu rõ hơn về “các biện pháp tích cực” tấn
công thông tin của Liên Xô và chỉ đạo Tổng cục Tác chiến (Directorate of
Operations) tăng cường thu thập thông tin tình báo tuyệt mật về tuyên truyền của
Liên Xô. Vào giữa năm 1981, quy mô về các nỗ lực của Liên Xô đã trở nên rõ
ràng. Trong một bài phát biểu vào tháng 8 năm 1981 về các chiến dịch thông tin
sai lệch của Liên Xô chống lại NATO, Reagan tiết lộ rằng Liên Xô đã chi khoảng
100 triệu đôla để gây hoang mang ở Tây Âu sau khi NATO phát triển đầu đạn
neutron vào năm 1979.
Về những nỗ lực mới nhất
của Moscow, Reagan cho biết ông không “biết họ hiện đang chi bao nhiêu tiền,
nhưng họ đang bắt đầu bằng cùng một phuơng cách tuyên truyền”, bao gồm tài trợ
cho các nhóm bình phong, thao túng truyền thông, gây ra những giả mạo và mua
chuộc các viên chức có ảnh hưởng. Ví dụ, vào năm 1983, Patriot, một tờ báo Ấn Độ
thân Liên Xô, đã đăng một câu chuyện tuyên bố rằng quân đội Hoa Kỳ đã tạo ra bệnh
HIV và phát tán nó như một vũ khí sinh học. Trong bốn năm sau đó, câu chuyện đã
được tái bản hàng chục lần và được phát sóng lại trên 80 quốc gia và 30 ngôn ngữ.
Đến năm 1982, CIA ước
tính rằng Moscow đang chi từ 3 đến 4 tỷ đôla hàng năm cho các nỗ lực tuyên truyền
toàn cầu của họ. Bộ Chính trị và Ban Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô là cơ quan chỉ
đạo “các biện pháp tích cực” này, họ không cần phân biệt giữa hoạt động bí mật
và hoạt động ngoại giao; đối với Điện Kremlin, thông tin sai lệch là một công cụ
để thúc đẩy các mục tiêu chiến lược của Liên Xô trong cuộc cạnh tranh với
phương Tây.
Với việc Hoa Kỳ cả nước
chú ý đến mặt trận tuyên truyền của Liên Xô, các nhà lãnh đạo cấp cao từ khắp
các cơ quan chính quyền Reagan đã cùng nhau thành lập một nhóm được gọi là Nhóm
làm việc về các biện pháp tích cực (Active Measures Working Group). Được dẫn đầu
do Bộ Ngoại giao lãnh đạo — và bao gồm các đại diện từ CIA, FBI, Cơ quan Tình
báo Quốc phòng DIA, bộ Quốc phòng và bộ Tư pháp — nên bộ máy các viên chức an
ninh quốc gia này đã nhanh chóng vào cuộc. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhóm
này không chỉ rất hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức toàn cầu về các nỗ lực
tuyên truyền của Liên Xô mà còn làm thiệt hại sự hiệu quả của tuyên truyền Liên
Xô. Trên thực tế, các chiến dịch chống thông tin sai lệch của Hoa Kỳ đã thành
công đến mức lãnh tụ Liên Xô Mikhail Gorbachev năm 1987 đã chỉ thị KGB thu hẹp
quy mô các hoạt động tuyên truyền của mình.
Rõ ràng, những ngày đó đã
qua lâu rồi. Trái ngược hoàn toàn với thành tích của những năm 1980s, Hoa Kỳ kể
từ đầu thế kỷ này, phần nhiều đã thất bại trong việc chống lại các chiến dịch
thông tin sai lệch của các đối thủ địa chiến lược như Nga, Trung Quốc và Iran. Sự
khởi đầu của giai đoạn dùng kỹ thuật số cho cuộc cạnh tranh cấp nhà nước để
giành ảnh hưởng xảy ra vào năm 2014, khi Nga chiếm Crimea từ Ukraine. Khi Nga
chuyển quân đến tiền đồn chiến lược ở Biển Đen, Tổng thống Nga Vladimir Putin
đã tuyên bố công khai rằng những lực lượng đang chiếm đóng Crimea không thể là
lực lượng đặc biệt của Nga – hoàn toàn láo khoét trước cộng đồng thế giới.
Trong những năm sau đó, các chiến dịch thông tin sai lệch của Điện Kremlin đã
gia tăng về số lượng, tốc độ và sự đa dạng. Ngày nay, các tổ chức cấp nhà nước
như Nga, Trung Quốc, Cuba, Saudi Arabia, Bắc Hàn và những nước khác sử dụng đội
quân chốt phá (trolls) và dư luận viên máy (bots) để tràn ngập internet với nội
dung sai lệch, gây hiểu lầm hoặc âm mưu phá hoại nền dân chủ phương Tây.
Nếu Washington vẫn đang
chiến đấu với cùng một kẻ thù, thì điều sai lầm gì đã xảy ra?
Bài bản của Hoa Kỳ để chống
lại thông tin sai lệch đã được dựa trên hai giả định, và cả hai giả định đều
không có giá trị cho ngày hôm nay: thứ nhất, việc phơi bày những lời nói dối và
những thông tin sai lệch, thông qua các kênh truyền thông chính thức của chính
quyền là một chiến thuật hiệu quả; và thứ hai, rằng Washington có thể chạy theo
kịp tốc độ và quy mô của các chiến dịch thông tin sai lệch. Trên thực tế, những
nỗ lực vạch trần của các viên chức chính quyền hầu như không làm suy suyển các
luận điệu tuyên truyền, và khối lượng các mối đe dọa vượt quá khả năng của
chính quyền Hoa Kỳ để nhận diện và đáp trả. Sự vẫn tự tin – cùng với sức mạnh
công nghệ – thì hiển nhiên, và điều này hầu như không thể tránh khỏi.
Một cách tổng quát, ba yếu
tố đã làm thay đổi trò chơi nhiễu loạn thông tin kể từ những năm 1980s — và làm
cho các giả định để hình thành nền tảng chiến dịch của Hoa Kỳ chống lại “các biện
pháp tích cực” của Liên Xô nay đã bị lỗi thời. Thứ nhất, môi trường truyền
thông toàn cầu đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Trong khi vào những năm
1980s, hầu hết người dân lấy những tin tức của họ từ một số ít các hãng tin in ấn
và từ phát thanh hay truyền hình, thì ngày nay, các sự kiện thế giới được phủ
sóng ngay lập tức bởi một loạt các kênh – bao gồm truyền thông mạng xã hội, tin
tức qua cáp quang, cùng các kênh tin tức và ấn phẩm truyền thống.
Thứ hai, các đối thủ của
Hoa Kỳ đã dựa vào bots để khuếch đại nội dung ngoài lề và sử dụng những trolls
để tạo ra nội dung giả nhằm thúc đẩy các mục tiêu chiến lược của họ. Cuối cùng,
sự phân cực chính trị ngày càng gia tăng đã thúc đẩy người đọc tin hướng tới
các phòng dội âm của đảng phái mình, trong khi gia tăng sự nghi ngờ của họ đối
với các nhà lãnh đạo chính quyền và những tiếng nói của các chuyên gia. Trong bối
cảnh như vậy, Nhóm làm việc về các biện pháp tích cực (Active Measures Working
Group) – một di tích của thời kỳ đơn giản hơn – không thể thành công được nữa.
Thật vậy, trong những
ngày đầu của đại dịch coronavirus, những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn thông
tin sai lệch của Trung Quốc về COVID-19 đã bị phản tác dụng; các chiến dịch
thông tin sai lệch của Bắc Kinh đã tăng tốc từ tháng 3 đến tháng 5. Đến tháng 6,
Twitter báo cáo rằng họ đã xóa 23.750 tài khoản do chính quyền Trung Quốc tạo
ra để chỉ trích các cuộc biểu tình ở Hồng Kông và để tán dương phản ứng của đảng
CSTQ đối với COVID-19.
Để làm phức tạp thêm vấn
đề, một chiến dịch chống thông tin sai lệch mà Hoa Kỳ đã áp dụng thành công
trong những năm gần đây khó có thể là một trường hợp tổng quát chung để áp dụng.
Chiến dịch “Operation Gallant Phoenix” do Hoa Kỳ lãnh đạo, chống lại Nhà nước Hồi
giáo, đã làm xói mòn tính chính đáng của nhóm này bằng cách phá hoại bộ máy
tuyên truyền của nó. Từ một trụ sở đa quốc gia ở Jordan, liên minh do HK dẫn đầu
này đã tràn ngập internet với nội dung chống Nhà nước Hồi giáo và cản trở khả
năng chuyển thông điệp của nhóm này ra toàn cầu.
Nhưng một chiến dịch chống
lại Nhà nước Hồi giáo không phải là một kế hoạch khả thi để chống lại các chiến
dịch thông tin sai lệch của Nga, Trung Quốc và Iran. Cộng đồng quốc tế – bao gồm
các công ty công nghệ tư nhân – chia sẻ sự đồng thuận rộng rãi rằng Nhà nước Hồi
giáo phải bị đánh bại. Sự đồng lòng chính trị này khó tồn tại, thí dụ như, bằng
cách nào, và có nên mạnh mẽ không để chống lại các nỗ lực đưa thông tin sai lệch
do Trung Quốc lãnh đạo, liên quan đến COVID-19.
Rõ ràng là Hoa Kỳ đang
thua trong các cuộc chiến thông tin, một phần là do sự thiếu đổi mới của các
vai chính trong cơ quan hành pháp. Nhưng không phải mọi việc đã thua. Chính quyền
tiếp nối có thể biến Hoa Kỳ trở thành đối thủ tầm cỡ trong các cuộc chiến thông
tin toàn cầu, bằng cách phát triển một chiến lược toàn diện chống thông tin sai
lệch được xây dựng trên ba trụ cột khác nhau.
Trước khi Hoa Kỳ có thể
xây dựng bất kỳ chiến lược chống thông tin sai lệch có tính quyết định nào, các
thành viên chính cần đạt được sự đồng thuận về luân lý huớng dẫn trong việc xử
lý dữ liệu. Trước tiên, một ủy ban do các nhà lãnh đạo từ phía hành pháp và
phía các tổ chức truyền thông soạn ra một bộ các nguyên tắc về cách dữ liệu được
xử lý trong một xã hội cởi mở và công bằng; những rạn nứt có tính cách triết lý
như giữa Giám đốc điều hành Twitter Jack Dorsey và Giám đốc điều hành Facebook
Mark Zuckerberg về vai trò của sự bày tỏ (role of speech) cần phải được khắc phục.
Bất kỳ một chiến dịch hiệu quả nào nhằm theo đuổi sự thật đều đòi hỏi một bộ
nguyên tắc hướng dẫn để thông báo về những loại phát biểu nào được cho phép
trong các diễn đàn kỹ thuật số và khi nào những phát biểu này được kiểm chứng
(fact-checked) — hoặc, trong trường hợp nghiêm trọng, bị loại bỏ hoàn toàn.
Sau khi các nguyên tắc đầu
tiên được thiết lập, Nhà Trắng có thể xây dựng khung sườn chính sách để hướng dẫn
các hành động phòng thủ và vận dụng nguồn lực thích hợp để chống lại các chiến
dịch thông tin sai lệch của nước ngoài. Theo tinh thần của Nhóm làm việc về các
biện pháp chủ động (Active Measures Working Group), thì một chiến lược chống
thông tin sai lệch có hiệu quả sẽ đòi hỏi sự tiếp cận toàn diện của chính quyền,
có gốc từ Bộ Ngoại giao và được Bộ Quốc Phòng hỗ trợ, với sự tham dự của cộng đồng
tình báo và các thành phần chủ chốt khác.
Cuối cùng, mặc dù chính
phủ Hoa Kỳ có khả năng và nên làm nhiều hơn nữa để chống lại các chiến dịch
thông tin sai lệch, nhưng cần phải nhìn rõ thực tế rằng khả năng định hình môi
trường thông tin của chính quyền đã bị xói mòn kể từ những năm 1980s. Một chiến
lược chống lại thông tin sai lệch toàn diện nên khôn ngoan để nhận ra các giới
hạn cho hành động của chính quyền trước tốc độ và quy mô mà thông tin di chuyển
trên các phương tiện truyền thông xã hội ngày nay.
Do đó, điều quan trọng là
phải lồng các hoạt động chống thông tin sai lạc do chính quyền lãnh đạo trong một
loạt các hoạt động do khu vực tư nhân thúc đẩy. Đóng vai trò điều phối viên,
Hoa Kỳ nên khuyến khích việc tạo ra một cơ quan xử lý việc xác minh sự thật
(fact-checking clearing house) giữa các mạng truyền thông xã hội để nhanh nhẹn
chống lại những thông tin bị nghi ngờ là sai lệch. Thật vậy, Facebook và
Twitter đã bắt đầu dán các nhãn về kiểm chứng sự thật cho các bài đăng có khả
năng sai sự thật hoặc gây hiểu lầm – với sự tức giận của Donald Trump. Điều này
cần được khuyến khích và mở rộng hoạt động để bắt kịp với tốc độ và quy mô của
nội dung các phát biểu được tạo ra và phổ biến trên các phương tiện truyền
thông xã hội.
Chính quyền cũng có thể sử
dụng các con đường đầu tư sáng tạo như Đơn vị Đổi mới Quốc phòng hoặc Trung tâm
Trí tuệ Nhân tạo Chung (Defense Innovation Unit or Joint Artificial
Intelligence Center) để ươm mầm phát triển các công nghệ thông minh nhân tạo AI
mới mà các mạng truyền thông có thể sử dụng để phát hiện công nghệ chuyên làm đồ
giả deepfake trên mạng – deepfake được sử dụng để tạo video giả, hình ảnh mới
nhưng giả, và cắt dán pha trộn thật-giả các văn bản. Deepfakes đang nhanh chóng
trở thành một phương tiện rẻ tiền, nhanh chóng và hiệu quả mà các tác nhân có
thể tiến hành chiến tranh bất bình thường chống lại kẻ thù của họ.
Bất kể hình dạng chính
xác nó sẽ có là gì, sự hóa thân trong tương lai của Nhóm làm việc về các biện
pháp tích cực (Active Measures Working Group) nên tìm đến các nhà lãnh đạo của
Silicon Valley để không những ngoài việc họ giúp vào việc đồng lãnh đạo cái
sáng kiến này mà còn sắp xếp nhân viên của họ vào các chức vụ
quan trọng khác trong ngành hành pháp. Cuối cùng, con đường dẫn đến sự ưu việt
của Hoa Kỳ đòi hỏi sự huy động những nguồn lực đặc sắc của đất nước như: khả
năng đổi mới, huy động các nguồn lực trên quy mô lớn và chung lưng với nhau
trong những khi khốn khó — như sau vụ 11/9. Chỉ có sự phản ứng được đánh dấu bằng
sự cộng tác lưỡng đảng trong chính quyền – cũng như kết hợp mạnh mẽ với các đối
tác bên ngoài chính quyền – mới có thể giúp cho Hoa Kỳ sự kiểm tra thực tế
(reality check) mà Hoa Kỳ đang rất cần.
_____
*Ghi chú: (Brian Raymond là phó chủ tịch của tổ chức Primer.ai. Trước đây, ông
từng phục vụ trong Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ và trong CIA.)
NGUỒN :
Forget Counterterrorism, the United States Needs a Counter-Disinformation Strategy
OCTOBER 15, 2020, 3:00 PM
No comments:
Post a Comment