Trần
Quốc Việt
28/10/2020
https://baotiengdan.com/2020/10/28/bon-minh-chi-co-mot-ong-cai/
Những năm tiểu học của
tôi diễn ra trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt. Tôi nhìn thấy trên truyền
hình hình ảnh ảnh dân chúng Huế chạy giặc năm Mậu Thân, rồi chẳng bao lâu sau lại
thấy cảnh khai quật những hố chôn tập thể ở Huế. Tôi từng chạy theo chúng bạn
nhặt truyền đơn máy bay quân đội thỉnh thoảng thả trên bầu trời Đà Nẵng.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/10/0-160.jpg
Học sinh lớp Nhất,
lớp Nhì (tức Lớp Bốn, lớp Năm) thời VNCH. Nguồn: Võ Trường Toản
Tôi nhớ mùa hè năm 1972
người tỵ nạn từ Quảng Trị tạm trú đông nghẹt trong các lớp học trường tiểu học
của tôi là trường Hồ Đắc Hạnh. Tôi nhớ những ngày đầu mỗi niên học chúng tôi được
phân phát bộ sách giáo khoa mới và những dịp được phát bánh mỳ và phần thưởng
cuối năm học. Các thầy cô giáo chúng tôi luôn dạy chúng những điều hay lẽ phải.
Chiến tranh không bao giờ nghe đến trong lớp học. Cho đến hôm nay sau hơn nửa
thế kỷ tôi vẫn còn nhớ bốn cầu đầu tiên của một bài học thuộc lòng nào đấy
trong lớp học năm nào:
“Tối nào ở cửa nhà tôi
Có hai thằng bé mồ côi ngủ nhờ.
Gối đầu trên chiếc hộp bơ,
Khoác manh áo rách xác xơ tan tành“.
Rồi tôi vào lớp đệ thất
trường trung học Phan Châu Trinh. Đến giữa năm đệ lục, cuộc chiến kết thúc tàn
bạo và bất ngờ.
Dù sao, nhìn lại tôi rất
may mắn đã sinh ra, lớn lên và thụ hưởng nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, dẫu
rằng không trọn vẹn. Tôi mang di sản nhân bản và văn minh căn bản ấy đi vào
tương lai mịt mùng và giông tố đang chờ mình và gia đình sau ngày 30 tháng 4
năm 1975.
Sau cuộc biển dâu, bạn bè
tiểu học của tôi đa phần phải vào vào đời sớm. Đôi lúc từ phương trời xa, qua một
người bạn thời tiểu học, tôi biết tình cảnh kém may mắn của nhiều người trong cảnh
hoàng hôn cuộc đời. Thời gian đã khắc những vết già nua và đau khổ trên bao
gương mặt những người bạn tiểu học ngày xưa.
Cách đây một tháng, người
bạn ấy gọi qua. Câu đầu tiên là “Việt ơi, ông cai chết rồi!”
Tôi bối rối hỏi: “Mi nói
ông cai nào?”
Bạn nói như trách: “Bọn
mình chỉ có một ông cai thôi mà mi cũng không nhớ à?”
Tôi nhớ rồi. Tôi nhớ những
giờ ra chơi từ lớp một đến lớp năm chúng tôi thường chơi đùa trong sân rồi chạy
đến nhà ông cai ở góc sân trường để mua bánh kẹo hay bút viết. Tôi nhớ hình ảnh
ông cai đánh trống trường mỗi ngày. Một người nhỏ thó, hiền lành, hầu như bọn học
trò chúng tôi thời ấy không bao giờ sợ.
Bạn tôi kể tiếp: “Tao
tình cờ nghe ông cai chết liền gọi bọn chúng báo. Tao rủ bọn nó đến viếng và
phúng điếu. Mỗi thằng hai trăm. Thằng nào không có thì miễn. Có mặt là tốt rồi“.
“Được bao nhiêu đứa?”
“Mười hai thằng tất cả”.
“Rồi sao?”
“Bọn tao kéo đến mang
theo vòng hoa ghi tên cựu học sinh niên khóa 1969-1973, trường Hồ Đắc Hạnh kính
viếng. Rồi mỗi thằng thắp hương. Thế thôi”.
Tôi im lặng vì xúc động.
Tôi mường tượng ra hình ảnh những học trò tiểu học giờ tóc đã bạc nhiều cùng
nhau đến viếng ông cai của trường tiểu học họ học ngày xưa.
Bạn tôi nói tiếp: “Mà mi
biết tao nói sao mà bọn nó đi hết không?”
“Mi nói sao?”
“Tao nói với bọn nó, rằng
bọn mình có nhiều thầy cô giáo thời đó, nhưng chỉ có một ông cai duy nhất. Nghe
vậy thằng nào cũng đi. Bọn mình chỉ có một ông cai thôi, mi thấy đúng không?”
Tôi xúc động đáp: “Đúng rồi.
Chỉ có một ông cai”.
Mấy ngày sau tôi cứ nghĩ
về chuyện này và tự hỏi, phải chăng xã hội, gia đình, đặc biệt nền giáo dục
nhân bản của Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện thành công vai trò dạy dỗ và giáo dục
những đứa bé của cách đây hơn năm mươi năm, mà hôm nay còn nhớ đến ông cai ở một
trường học đã đổi tên.
No comments:
Post a Comment