Phân
cực chính trị: Từ Hoa Kỳ đến Việt Nam
Cái Lư Hương
- Luật Khoa
30/10/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/10/phan-cuc-chinh-tri-tu-hoa-ky-den-viet-nam/
Những người tham gia ngồi
trước màn hình máy tính.
Họ được phân loại ngẫu
nhiên với một nhiệm vụ khá đơn giản: xếp các cụm từ kích thích tích cực như
“Tuyệt vời”, “Hoàn hảo”, “Siêu cấp”… vào khung “Đảng Cộng hòa – Republican”; và
các cụm từ tiêu cực như “Kinh khủng”, “Tồi tệ”… vào khung “Đảng Dân chủ –
Democrat”.
Sau đó họ được yêu cầu
làm ngược lại.
Những tính từ nói trên sẽ
hiện nhanh trên màn ảnh, và người tham gia được hướng dẫn sắp xếp chúng một
cách nhanh nhất và chính xác nhất có thể.
Theo hai nhà tâm lý học
Shanto Iyenar đến từ Đại học Stanford và Sean J. Westwood đến từ Đại học
Princeton, thời gian thực hiện những tác vụ trên có thể cân
đo đong đếm những thành kiến tiềm ẩn của một cá nhân không chỉ về quan điểm
chính trị nói chung, mà còn về hiện thực phân cực chính trị (political
polarisation) nói riêng.
Để có một hệ quy chiếu cụ
thể, những người tham gia cũng được yêu cầu làm một bài kiểm tra khác tương tự,
nhưng lần này thay vì là Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, người ta đưa ra hai
khung: “Người Mỹ gốc Phi da đen” và “Người Mỹ gốc Âu da trắng”.
Kết quả khiến cả hai nhà
nghiên cứu sửng sốt:
Mức độ thành kiến chính
trị tiềm ẩn dựa trên ý thức hệ và đảng phái chính trị nặng và sâu hơn rất nhiều
so với mức độ thành kiến sắc tộc. Điều này khiến cả hai đi đến kết luận rằng
phân cực đảng phái – chính trị nay đã vượt qua các phân cực định kiến liên quan
đến sắc tộc.
Vào năm 2014, đây là một
phát hiện chấn động.
Niềm tin chính trị trở
thành căn tính xã hội của một cá nhân, và tương tự như sắc tộc ngày xưa, cho
phép chúng ta tin rằng những người cùng quan điểm chính trị với chúng ta là đạo
đức, là văn minh – còn những kẻ khác biệt là bọn bại hoại “bất hảo”.
Càng nguy hiểm hơn, xã hội
loài người chưa tồn tại một chuẩn mực pháp lý hay chuẩn mực xã hội nào ngăn chặn
– bài trừ những hành vi phân biệt đối xử hay định kiến dành cho một người chỉ dựa
trên ý thức hệ của họ, khác với hành vi phân biệt chủng tộc vốn đã bị lên án là
sai trái hàng thập kỷ nay.
Trên thực tế, chúng ta
thường ca tụng, tán dương, nhiệt liệt hưởng ứng khi những “anh hùng chính trị”
của chúng ta tấn công, trừng trị, hay tiêu diệt các đối thủ của họ.
Biểu đồ khảo sát về tình trạng phân cực chính trị ở
Mỹ qua các thời kỳ. Nguồn: Pew Research.
***
Nhưng phân cực chính trị là gì? Và nó từ đâu
ra?
Hiểu một cách đơn giản
thì phân cực chính trị là khi thói tư duy “ta – họ” trong các thảo luận chính
trị trở nên cực đoan, biến thành “ta – địch”. Người ta không thảo luận một
chính sách, một đạo luật dựa trên cái gốc, cái nền của vấn đề… mà thay vào đó dựa
trên những nhãn mác chính trị của một con người.
“Cộng hòa” – “Dân chủ”
“Nhà nước” – “Phản động”
“Cộng sản” – “Tư bản”
…
Thay vì thảo luận và cho
phép phe đối lập thảo luận cùng mình những vấn đề chính sách mấu chốt để tìm ra
một lời giải chung, phân cực chính trị khiến môi trường chính trị trở nên độc hại,
thiếu tính xây dựng, với hàng ngàn người đặt câu hỏi nhưng không ai tìm câu trả
lời.
Như vậy, phân cực chính
trị không giống với những bất đồng hay tranh cãi chính trị thông thường. Phân cực
chính trị là khi những người không cùng quan điểm chính trị với nhau trở nên cực
đoan và thiếu lý tính khi đối diện với nhau.
Việc bạn và hàng xóm nhà
bạn không cùng ủng hộ một quan điểm chính trị là bình thường, là cần thiết cho
một nền dân chủ lành mạnh.
Nhưng việc bạn không chấp
nhận sống cạnh hàng xóm, nguyền rủa họ xuống chầu Diêm Vương sớm, cạnh khóe đời
sống cá nhân hay mong muốn chính quyền bắt bớ hay xử lý họ quách cho xong
chỉ vì họ thích một nhân vật chính trị nào đó, dù có đứng về phe chân lý hay
không, thì chính bản thân bạn cũng đang trở thành một phần của thực tế phân cực
chính trị quốc gia.
Được chủ nghĩa bộ tộc
(tribalism) dung dưỡng, phân cực chính trị đẩy các nhóm ý thức hệ khác nhau vào
“cuộc đua về không”, nơi khó mà có ai chiến thắng.
Tại Hoa Kỳ, nghiên cứu có
tên gọi Hidden
Tribes: A Study of America’s Polarized Landscape của dự án More
in Common cố gắng làm nổi bật những vấn đề mà toàn bộ hệ thống chính trị, báo
chí, truyền thông Hoa Kỳ đang khiến cho tình hình phân cực tại quốc gia ngày
càng trở nên ngoài tầm kiểm soát.
Bằng việc khảo sát một số
lượng mẫu có kiểm soát phù hợp, nhóm nghiên cứu cho thấy có đến ¾ người Mỹ đồng
ý rằng một quy trình kiểm soát súng chặt chẽ hơn là cần thiết. Cũng tỷ lệ tương
tự cho rằng họ đồng tình với việc cho thiết lập một quy trình nhập tịch cho những
người bị mang đến lãnh thổ Hoa Kỳ khi còn là trẻ em. Họ cũng đi đến kết luận rằng
hầu hết người Mỹ đều nhận định những khác biệt của họ không nghiêm trọng đến mức
họ không thể ngồi lại và nói chuyện với nhau.
Phân tích một đề xuất
chính sách chỉ dựa trên những con số, định hướng, hiệu quả và lợi ích theo thống
kê nhàm chán sẽ nhanh chóng giúp đề xuất ấy nhận được sự ủng hộ phi đảng phái
(bipartisan support).
Song kể cả cử tri lẫn các
nhà lập pháp, các chính trị gia Hoa Kỳ ở cả hai phe ít khi trình bày một chính
sách nhàm chán như nó vốn là.
Họ dán nhãn, vận động, quảng
bá các chính sách như thể chúng là một sản phẩm độc nhất vô nhị của chính đảng
đó,
là nền tảng của đạo đức,
là ơn mưa móc mà chỉ có
chính đảng đó có thể ban cho người dân…
Dưới những ngôn ngữ như vậy,
phân cực chính trị tự nhiên trở thành một thói
quen “chúng ta – chúng nó” mà không cần quá nhiều tâm sức chia rẽ, đầu
cơ.
Hà Nội, ngày 8/4/2020. Ảnh: MANAN VATSYAYANA / AFP.
***
“Thật quá may mắn!” Có bạn
đọc ắt hẳn tự nói.
Việt Nam làm gì có chính
đảng nào khác ngoài Đảng Cộng sản? Vậy sợ gì phân cực với chả phân chia chính
trị? Diễn ngôn chính trị của Đảng Cộng sản là lời nói chính thức, là quan điểm
cuối cùng trong mọi cuộc thảo luận – thế thì có gì phải lo?
Tuy nhiên, người viết cho
rằng tự thân sự vận hành của nhà nước đơn đảng của Việt Nam đã là một hiện thực
thực tế của phân cực chính trị lên đến đỉnh điểm.
Tôi từng phải viết báo
cáo nhỏ về một nữ phóng viên từng làm việc cho một tờ báo nhà nước địa phương
nhưng sau đó nghỉ việc vì các bất đồng chính kiến với lãnh đạo. Chị sau đó tham
gia ủng hộ (bằng các bài viết online của mình) các phong trào dân sự quốc gia
như các cuộc biểu tình liên quan đến Dự thảo Luật Đặc khu, Luật An ninh mạng;
nêu lên quan điểm của mình trong vài vấn đề chính trị của đất nước.
Khác hẳn với các KOLs
(Key Opinion Leaders), các bài viết của chị chỉ đến với một số lượng rất nhỏ bạn
đọc, không có quá nhiều ảnh hưởng lên hệ thống chính trị quốc gia hay địa
phương. Tuy nhiên, chị vẫn bị công an bắt và bỏ tù.
Đáng ngạc nhiên hơn là
ngay sau khi chị bị bắt, một lực lượng lớn các cá nhân tìm đến tài khoản
Facebook của chị để nhục mạ, chửi bới.
“Vồ được mày rồi con chó
cái!”
“Ở trong tù mà chống phá
nhà nước nhé con đ*!”
Cho đến nay, chúng vẫn tiếp
tục nằm trong nhóm những bình luận khá ám ảnh mà tôi từng đọc liên quan đến
ngôn từ và thái độ mà người trưởng thành Việt có thể dành cho một người phụ nữ
có chính kiến khác với mình.
Các thảo luận chính trị
trên dải đất hình chữ S hiện nay dường như không có sự tồn tại của phân cực
chính trị, đơn giản vì chỉ một phe sở hữu quyền lực tuyệt đối trong việc sỉ nhục
và đàn áp tất cả các tiếng nói còn lại, dù ở mặt ngôn luận hay quyền năng bạo lực.
Hiện trạng này dẫn đến
hai vấn nạn lớn.
Một là chính nhóm tiếng
nói chiếm ưu thế ngày càng trở nên cực đoan. Họ tự cho rằng lý tưởng và quan điểm
của mình, trong mọi hoàn cảnh chính trị – lịch sử – khoa học, là không thể sai,
là đạo đức, là văn minh, là đại diện cho lợi ích dân tộc. Vị thế “thượng đẳng đạo
đức” này càng được chính quyền củng cố, khi mà mọi quan điểm không phù hợp với
góc nhìn của nhóm này đều bị trừng phạt, dù bằng công cụ hành chính hay hình sự.
Hai là thói quen thảo luận,
học tập các góc nhìn mới hay thói quen thỏa hiệp đã quá lâu không tồn tại trong
văn hóa chính trị Việt Nam. Nhóm tiếng nói yếu thế luôn phải trong vị thế phòng
vệ. Không có các kênh truyền thông hay thảo luận chính thống, họ buộc phải trở
nên hung hăng và bảo thủ hơn đối với các quan điểm của mình. Họ biết rằng nếu
không là họ, không chủ thể nào sẽ bảo vệ tầm nhìn của họ trong tương lai.
Và ngược lại, nhóm tiếng
nói ủng hộ chính quyền cùng vị thế “thượng đẳng đạo đức” cũng ngày càng trở nên
hung hăng và bảo thủ hơn, không phải vì họ không có đồng minh, mà vì quan điểm
của họ biến thành một thứ tôn giáo nhất nguyên, trong khi những quan điểm không
thuận tai dần bị coi thường là bọn ngoại đạo dị giáo.
***
Đến đây có thể thấy Hoa Kỳ,
dù phân cực chính trị đến mức nào đi chăng nữa, vẫn còn đường lui.
Dù thế hệ ngày nay có cảm
nhận như thế nào về sự phân cực chính trị tại Hoa Kỳ, nền chính trị của họ đã từng
tệ hơn thế rất nhiều. Trong một bài bình
luận của cây bút Russel Berman trên tờ The Atlantic, ông cho rằng chính trị
Hoa Kỳ đã từng phân cực và tồi tệ hơn những gì đang diễn ra hiện nay rất nhiều.
Fan của vở nhạc kịch
Broadway lừng danh Hamilton vẫn thường được nhắc nhở rằng bộ trưởng tài chính đầu
tiên của Hoa Kỳ – Alexander Hamilton – chết vì đấu súng tay đôi với Phó Tổng thống
đương nhiệm Aaron Burr vào năm 1804.
Hay các thảo luận về chế
độ nô lệ vào giữa thế kỷ 19 tại quốc gia này cũng đẩy Thượng viện Hoa Kỳ thành…
sàn đấu của nhiều nghị viên.
Đặc biệt hơn, trong thập
niên 1960 và 1970, các vấn đề liên quan đến phân biệt sắc tộc và chiến tranh Việt
Nam dường như luôn đẩy Hoa Kỳ đến ngưỡng bùng nổ.
So sánh sự phân cực chính
trị của Hoa Kỳ trong những thời khắc lịch sử nói trên với vài thảo luận “đứt
tay, trầy chân” hiện nay quả thật không có nghĩa lý gì.
Thêm vào đó, các công cụ,
văn hóa và quan trọng nhất là hệ thống xã hội dân sự để đẩy
mạnh và khôi phục lại những thảo luận và bất đồng chính trị tích cực vẫn
còn đó. Sách vở, báo chí, hệ thống nghiên cứu khoa học xã hội, các tổ chức thăm
dò dư luận, các viện nghiên cứu, các tổ chức cộng đồng… luôn sẵn sàng hoạt động,
hợp tác vì lợi ích chung, tiếng nói chung.
Ngược lại, Việt Nam chúng
ta có gì để thảo luận, thỏa hiệp hay tìm kiếm sự tương đồng?
No comments:
Post a Comment