David Brown
Song Phan dịch
24/12/2019
Trong khoảng hơn
hai thập kỷ, nhiều đợt báo động đã nổi lên ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nó đang
chịu tác động dồn dập bởi biến đổi khí hậu, bởi sự phát triển ồ ạt của các đập
thượng nguồn, bởi các tập quán canh tác không bền vững và không phù hợp, bởi
lòng tham và quyết tâm chính trị. Sự trừng phạt mà đồng bằng này đang gánh chịu
đã được báo cáo rõ ràng, đầu tiên là trong các bài nghiên cứu học thuật, kế đó
là trong các ấn phẩm chuyên ngành và lời kêu gọi của các tổ chức phi chính phủ.
Bây giờ có một sự đồng
thuận: Một thảm họa môi trường đang diễn ra một cách khó dừng được trên 75.000
km² vùng đất thấp màu mỡ có tiếng ở Việt Nam và Campuchia, nơi sinh sống của
khoảng 35 triệu nông dân và ngư dân. Các phương tiện truyền thông lớn đang đưa
ra các cáo phó bi thương cho sông Mê Kông.
Tuy nhiên, vào mùa
thu của một năm mà lũ sông Mê Kông đến muộn hơn bao giờ hết, có lý do để tin rằng
một công nghệ đột phá và lực lượng thị trường sẽ tạo điều kiện cho hệ thống thủy
văn và hệ sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long tránh khỏi bị xáo trộn không đảo
ngược được. Quy lại như thế
này: Công nghệ sản xuất điện mặt trời chi phí thấp, dễ nhân rộng đã loại trừ
ưu thế kinh tế để xây thêm các dự án thủy điện nữa.
Một hệ thống phát
điện mặt trời nổi, hệ thống đầu tiên ở Đông Nam Á, đã được triển khai trong năm
nay trên một hồ chứa ở phía nam miền trung Việt Nam. Dự án Đa Mi 47,5 megawatt được một khoản
vay của Ngân hàng Phát triển châu Á cấp vốn và được một công ty con của công ty
điện lực EVN xây dựng.
Đa Mi không phải là
một dự án trình diễn nhờ dựa vào nhiều trợ cấp, mà là một phản ứng rất thích ứng
vì áp lực thực tế của thị trường. Để kích thích việc chuyển sang sản xuất điện
mặt trời, chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo EVN, công ty điện lực quốc gia, trả
9,35 US cent mỗi kilowatt giờ trong 20 năm cho bất kỳ dự án nào được đưa vào hoạt
động trước ngày 30 tháng 6 năm 2019. Đối với các nhà điều hành Nhà máy thủy điện
Đa Mi, tính kinh tế của việc tích hợp hệ thống năng lượng mặt trời với đập thủy
điện hiện có rất hấp dẫn. Giàn pin mặt trời rộng 50 ha (124 mẫu Anh), mỗi tấm
pin nghiêng theo một góc được tính toán chính xác để tối đa hóa mức thu năng lượng
mặt trời, bắt đầu cung cấp điện cho lưới điện quốc gia Việt Nam vào tháng 5.
Do giá của các tấm
pin quang điện mặt trời đã giảm rất mạnh trong thập kỷ qua và do việc lắp đặt với
‘quy mô tiện ích công’ (utility-scale ≥ 10 megawatts) có thể được hoàn tất
trong vài tháng, các dự án này hiện đang cạnh tranh với các dự án than, khí đốt,
thủy điện hoặc hạt nhân. Việc chế tạo các tấm pin mặt trời và chi phí trữ điện
bằng ắc-quy, dự kiến sẽ giảm nhiều hơn nữa. Các giàn năng lượng mặt trời
nổi được dựng trên các hồ chứa của các đập thủy điện, hiện có hiệu quả đặc biệt về mặt chi phí; không phải mua
mặt bằng, đơn giản trong việc nhân rộng khi nhu cầu tăng, cơ sở hạ tầng truyền
tải có sẵn và việc phát điện có thể được tối ưu hóa bằng cách chủ yếu dựa vào
năng lượng quang điện khi có ánh sáng ban ngày và thủy điện vào ban đêm.
Các hệ thống năng
lượng mặt trời nổi đang được ghi vào kế hoạch tổng thể về năng lượng của
Singapore, Thái Lan, Indonesia và Philippines cũng như Việt Nam, và vào các
tính toán của các ngân hàng đầu tư.
HOW FLOATING SOLAR PANELS WORK
Năng lượng mặt trời
nổi với quy mô lớn hơn, công suất đỉnh 400 MW, cũng được xem là giải pháp thay
thế cho dự án thủy điện khổng lồ trên sông Mê Kông ở phía đông Campuchia. Vào
năm 2014, nỗi lo ngại ngày càng tăng đối với tác động sinh thái của dự án đập
Sambor đã thuyết phục chính phủ Campuchia thực hiện một nghiên cứu về các thiết
kế thay thế nó. Nghiên cứu này được Viện Di sản Thiên nhiên (Natural Heritage
Institute, hay NHI) có trụ sở tại California hoàn tất ba năm sau đó, đã khẳng định
dự án đập Sambor này là một thảm họa sinh thái không có giải pháp môi trường
nào có thể đối phó được. Đáng chú ý, NHI đã tìm thấy một phương án thay thế
hoàn toàn khác, giàn quang điện mặt trời nổi trên hồ chứa Se San 2 gần đó,
có thể cung cấp điện cho lưới điện Campuchia với chi phí vòng đời thấp hơn bất
kỳ kịch bản nào của kế hoạch Sambor, và không có tác động môi trường đáng kể.
Chỉ trên cơ sở kinh
tế và tài chính, kế hoạch thủy điện Sambor sẽ phải chết. Tuy nhiên, Campuchia
là một đất nước ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa; nhu cầu năng lượng của nước này tăng 15-20%
mỗi năm. Nước này là một đồng minh trên thực tế của Trung Quốc, nhờ vậy Trung
Quốc ngăn chặn Việt Nam hoặc Thái Lan lèo lái Campuchia theo hướng khác. Tham
nhũng trong chính quyền đầy rẫy. Khiếu kiện của công dân dường như không gây ấn
tượng với chính quyền Phnom Penh. Nếu các ngân hàng nhà nước Trung Quốc vẫn sẵn
sàng cho các công ty Trung Quốc vay khoản tiền mặt cần thiết để xây đập Sambor
và Stung Treng, một đập gây tranh cãi khác ở thượng nguồn, liệu Phnom Penh có
khả năng từ chối không?
Lào vẫn mơ ước làm
giàu từ xuất khẩu điện. Mặc dù nước này cũng đang xem xét đề xuất năng lượng mặt trời nổi của NHI, dù kinh
tế của thủy điện u ám hơn bao giờ hết và các khoản nợ chồng chất với Sinohydro
và các nhà thầu Trung Quốc khác đã không làm giảm bớt sự nhiệt tình của Viêng
Chăn trong việc làm chủ khoảng 200 đập sản xuất điện. Các nước láng giềng cũng
chưa rút lại lời hứa sẽ nhập khẩu một lượng lớn điện của Lào. Được biết Thái Lan đã cam kết tăng mức nhập
khẩu điện của Lào, từ mức khoảng 4000 MW hiện tại lên 9000 MW vào năm 2025;
trong khi đó, Việt Nam có kế hoạch lấy 5000 MW vào năm 2030; và Campuchia vừa hứa sẽ lấy 2400 MW bắt đầu vào năm 2024 từ
các nhà máy điện than hiện đang được xây dựng tại Lào.
Ở Việt Nam, nơi mà
hầu như không có một con sông nào bên trong biên giới mà không có đập, ý kiến
chuyên gia giờ đã chuyển mạnh sang chống lại các dự án thủy điện trên sông Mê
Kông và các nhánh của nó. Như thường được đưa tin trên báo chí địa phương Việt
Nam, các đập ở Trung Quốc, trên các nhánh của sông Mê Kông ở các vùng cao của
Việt Nam, và trên hết sông này đến sông khác ở Lào, đã làm nghẽn đi dòng phù sa
màu mỡ đến các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long hàng năm và làm cạn kiệt nguồn cá ở
đó.
Vek Kmeang lái con
thuyền của anh lên con kênh giữa hai hòn đảo trên sông Mê Kông ở Campuchia lúc
hoàng hôn. Khu vực đảo này dự kiến sẽ bị ngập lụt nếu đập thủy điện Sambor được
xây dựng theo kế hoạch. Hơn 19.000 người sẽ phải di dời bởi hồ chứa nước. Ảnh:
Rod Harbinson/ Mongabay.
Trớ trêu là một
công ty kỹ thuật và xây dựng có quan hệ chặt chẽ với chính phủ, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, đã thông báo rằng họ sẽ bắt đầu xây một
nhà máy điện và đập trị giá 2 tỷ đô la, 1400 MWP trên sông Mê Kông ngay trên
Luang Prabang năm 2020; công ty Chart Karnchang của Thái Lan dự kiến sẽ là một
nhà thầu phụ lớn.
Campuchia và Lào, nước
láng giềng phía thượng nguồn, sẵn sàng nhận viện trợ nước ngoài nhằm phủ xanh
lưới điện của họ, nhưng cả hai nước này không cảm thấy có nhiều nghĩa vụ phải hạn
chế dấu vết carbon. Nói tóm lại, mặc dù việc tạo ra điện từ than hoặc đập trên
sông, đang ngày càng không mang lại lợi ích kinh tế, nhưng hai cách cũ này vẫn
còn sức lôi kéo lớn.
Việc đưa vào lưới
các dạng điện này, không chút chắc chắn công nghệ tốt sẽ đẩy lùi được công nghệ
xấu, đặc biệt ở quy mô đáp ứng nhu cầu năng lượng đang phát triển nhanh chóng của
khu vực lục địa Đông Nam Á.
Tuy nhiên, các nhà
môi trường vẫn có thể mơ mộng. Một trong số đó là kỹ sư Mỹ gốc Việt, Phạm Long.
Từ năm 1995, Quỹ Sinh thái Việt (Viet Ecology Foundation) của ông Long đã tích
cực đối thoại giữa các chuyên gia trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài và
các đối tác tại Việt Nam. Bây giờ ông đang thúc giục các nhà hoạch định chính
sách ở Campuchia xem xét điều mơ ước của ông về một nhà máy năng lượng mặt trời
nổi 28,5 GWP trên hồ lớn nhất Đông Nam Á, Tonle Sap (Biển Hồ).
Dự
án “Mặt trời trên hồ” của ông Long táo bạo về quy mô: Ông đề xuất một dự án mặt trời nổi
với quy mô được nâng lên hàng năm theo nhu cầu năng lượng đang tăng của
Campuchia cho đến khi nó lớn gấp 590 lần nhà máy sản xuất năng lượng mặt trời
Đa Mi ở Việt Nam đã đề cập ở trên, lớn gấp 70 lần nhà máy năng lượng mặt trời
do NHI đề xuất trên hồ chứa hạ lưu Se San 2 của Campuchia, như là một phương
cách thay thế cho dự án thủy điện Sambor, và tương đương với 47 nhà máy phát điện
chạy bằng than cỡ trung bình.
Tonle Sap là một địa
điểm lý tưởng cho một giàn năng lượng mặt trời nổi: Đó là một trong những nơi nắng
nhất ở Đông Nam Á. Các tấm pin nghiêng về phía nam một góc 14 độ sẽ nhận được 2034 kilowatt giờ chiếu xạ trên
một mét vuông mỗi năm.
Ông Long dự kiến rằng
một hệ thống năng lượng mặt trời nổi trên hồ Tonle Sap có thể được xây với mức
gia tăng diện tích 34 km² mỗi năm để theo kịp cơn khát điện của Campuchia. Ông
Long giả định rằng, giá của các tấm pin mặt trời, hiện khoảng $800 / kilowatt
giờ, sẽ giảm 2% mỗi năm và giá ắc quy trữ điện cũng sẽ giảm. Ngoài ra, cộng
thêm chi phí vận hành và bảo trì, cùng chi phí kết nối với lưới điện quốc gia của
Campuchia, ông Long tính toán rằng, giàn năng lượng mặt trời nổi có thể đáp ứng
tất cả nhu cầu năng lượng của Campuchia từ năm 2020 đến năm 2045, và có thể xa
hơn, với chi phí sản xuất diện qui dẫn là 7,73 US cent mỗi kilowatt giờ. Chi
phí đó tương đương với chi phí xây nhiều đập mới trên dòng chính sông Mê Kông,
và chưa bằng một nửa số tiền mà người tiêu dùng Campuchia hiện phải trả tiền điện.
Khi các tổn thất
tránh được – bảo tồn thủy sản nội địa và đất nông nghiệp, và tạo việc làm cho
dân số ven sông của Campuchia – được xét tới, giá điện năng được cân bằng từ dự
án Mặt trời trên Hồ, theo tính toán của ông Long, giảm xuống chỉ còn 4,93 cent
mỗi kilowatt giờ.
Ông Long không gợi
ý ai sẽ cung cấp 31 tỷ đô la Mỹ mà ông ước tính sẽ cần để xây dựng dự án hồ
Tonle Sap 330 km², 28,5 GWp. Các ngân hàng Trung Quốc sẽ sẵn sàng tài trợ cho một
giàn năng lượng mặt trời nổi khổng lồ như họ đã từng cho vay để thực hiện các dự
án thủy điện không? Điều đó hoàn toàn có thể nghiệm ra được; các nhà máy của
Trung Quốc sản xuất hơn 60% nguồn cung cấp tấm pin mặt trời toàn cầu và kỹ sư của
họ có nhiều kinh nghiệm xây dựng các cánh đồng năng lượng mặt trời. “Đó sẽ là một
cơ hội lớn cho người Trung Quốc, chứng tỏ cho láng giềng của họ thấy rằng họ là
những người anh em tốt”, ông Long nói.
Nếu không phải
Trung Quốc, có thể các ngân hàng và nhà thầu phát triển phương Tây có thể bị
thuyết phục để đẩy mạnh cơ hội có một không hai này giúp tránh thảm họa sinh
thái và thu lợi từ việc này. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, có nhiều khả năng là họ
sẽ tập trung vào ý tưởng năng lượng mặt trời nổi do NHI đề xuất, vốn muốn thúc
đẩy các nhà máy thủy điện hiện có và các hồ chứa của chúng – 5 ở Campuchia và 9
ở Lào – để sản xuất thêm 5 gigawatt điện.
Greg Thomas, Giám đốc
điều hành của NHI, giải thích rằng, việc đặt các giàn năng lượng mặt trời nổi ở
cùng một chỗ với các nhà máy thủy điện hiện có, làm sản lượng điện tăng gần gấp
đôi và giảm sự biến đổi của nó. Điều này là do hai chế độ phát điện bổ sung
nhau. Ban ngày, các tuabin thủy điện có thể được hạ xuống, trừ khi cần thiết để
cân bằng sự sụt giảm sản lượng điện mặt trời do các đám mây bay ngang qua gây
ra. Ban đêm, tận dụng nguồn nước được thêm vào các hồ chứa lúc ban ngày, các
tuabin có thể được chạy ở tốc độ cao hơn.
Thomas nói thêm rằng,
việc thêm năng lượng mặt trời cho các đập hiện có, sẽ cho phép Lào đáp ứng được
các mục tiêu xuất khẩu năng lượng đầy tham vọng của họ qua việc xây ít đập hơn,
mang lại nguồn điện bổ sung lên dây dẫn nhanh hơn rất nhiều và với chi phí thấp
hơn đáng kể.
Liệu những người ra
quyết định ở Vientiane và Phnom Penh sẽ từ bỏ các dự án thủy điện mà họ đã chuẩn
thuận từ nhiều năm trước, trước khi các tác động môi trường được hiểu một cách
thoả đáng và khi các giải pháp năng lượng mặt trời và gió thay thế còn khó có
thể tưởng tượng ra?
Ở Campuchia, Thủ tướng
Hun Sen và một vài trợ lý được tin cậy, độc quyền ra quyết định. Kế hoạch phát
triển năng lượng quốc gia sắp được cập nhật, một lần nữa rất có thể sẽ là một mớ
hổ lốn các khả năng. Tình trạng thiếu điện kinh niên là một sự kìm hãm đối với
sự tăng trưởng kinh tế của Campuchia, và hiểu biết thông thường cho rằng, cái
được xây sẽ là bất cứ thứ gì mà ai đó sẵn sàng tài trợ với giá điện do EDC,
công ty điện lực quốc gia, định ra. Tính cấp thiết của việc có thêm năng lượng
đưa lên lưới sẽ làm năng lượng mặt trời được ưa chuộng hơn, đặc biệt là năng lượng
mặt trời nổi, nhưng để điều đó trở thành một phần lớn của giải pháp, EDC sẽ phải
cải thiện khả năng ổn định lưới điện.
Khi việc phát điện ở
‘quy mô tiện ích công’ từ gió và nắng (nổi hay không) được đẩy mạnh ở Thái Lan
và Việt Nam, chính phủ Lào sẽ phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn. Họ phải
đối mặt với khả năng rất thực tế là chi phí sản xuất điện giảm nhanh bên trong
biên giới của chính họ, sẽ khiến cả Thái Lan lẫn Việt Nam bỏ ngang các cam kết
mua điện từ Campuchia, nơi đã từng mang hy vọng sẽ là “Bình điện của Đông Nam
Á”. Trong trường hợp đó, phát triển thủy điện thêm trên sông Mê Kông và các
nhánh của nó, sẽ không còn có khả năng được cấp vốn.
--------------------------
Tác giả David
Brown từng là nhà ngoại giao Hoa Kỳ, hiện viết các bài bình
luận về vấn đề Việt Nam và các khu vực lân cận.
Từ Mongabay và Asia Sentinel
*
*
Analysis: Floating solar power along
the dammed-up Mekong River
Analysis by David Brown on
3 December 2019
No comments:
Post a Comment