Sunday 29 December 2019

VAI TRÒ CỦA GIỚI CHÓP BU TRONG CÁC CUỘC CÁCH MẠNG HẬU CỘNG SẢN (Paul D'Anieri)




Tác giả: Paul D’Anieri
Minh Tâm biên dịch
24/12/2019

TÓM TẮT:

Từ năm 1999, các quốc gia hậu cộng sản đã chứng kiến một loạt các nỗ lực nhằm lật đổ các chế độ bán độc tài, trong đó các cuộc cách mạng thành công được biết đến với tên gọi “Các cuộc cách mạng màu”. Tuy nhiên, không phải tất cả các cuộc nổi dậy đều thành công. Bài báo này sẽ tìm cách giải thích sự đa dạng của các kết quả. Luận điểm trung tâm ở đây là giới chóp bu. Đặc biệt là các lực lượng vũ trang, đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc cách mạng. Quan trọng hơn nhiều so với những gì từng được khẳng định trước đó.

Hành động của giới chóp bu đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy các cuộc biểu tình đạt tới “điểm ngưỡng”, điểm mà tại đó số lượng người tham gia biểu tình tự động tăng lên tới mức khiến chế độ độc tài sụp đổ. Luận điểm này sẽ được kiểm chứng thông qua khảo sát, so sánh giữa hai phong trào thất bại trong việc lật đổ chế độ độc tài thông qua các cuộc biểu tình đường phố (ở Serbia 1996-1997 và Ukraine 2001) với hai phong trào thành công (ở Serbia 1999 và Ukraine 2004).

GIỚI THIỆU

Bắt đầu với Serbia năm 1999 và gần đây hơn là Kyrgyzstan năm 2005, một loạt các cuộc cách mạng đã xảy ra trong thế giới hậu cộng sản, trong đó các chế độ bán độc tài – hậu toàn trị (trước đó nằm dưới sự cai trị của các chế độ cộng sản toàn trị) đã bị lật đổ thông qua các cuộc biểu tình quần chúng lớn trên đường phố. Các học giả, nhà báo và các nhà làm chính sách đã dành nhiều công sức để giải thích các cuộc cách mạng này, với hi vọng có thể tìm ra một ‘công thức’ để lật đổ các chế độ độc tài.

Nghiên cứu này cũng hướng đến mục đích như vậy, trong đó nhấn mạnh vào vai trò của giới chóp bu trong chính quyền, đặc biệt là lực lượng vũ trang. Trong khi mọi người thường nhấn mạnh đến ‘sự huy động tự phát quy mô lớn’ của người dân đối với thành công của cách mạng, họ đã không nhận thấy rằng, chính giới chóp bu trong chính quyền mới là tác nhân quyết định liệu sự huy động/nổi dậy đó có lớn mạnh và thành công, hay sẽ suy yếu và thất bại.

Trong các trường hợp của Serbia năm 1999, Georgia năm 2003 và Ukraine năm 2004, giới chóp bu (trong chính quyền) không đơn thuần bỏ rơi những người lãnh đạo nhằm tránh một cuộc đổ máu, mà họ đã tích cực hỗ trợ các cuộc biểu tình. Họ không chỉ từ chối thực hiện các biện pháp ngăn chặn các cuộc biểu tình từ sớm (nhằm giữ cho các cuộc biểu tình chỉ ở quy mô nhỏ), mà còn khuyến khích người biểu tình bằng việc cho thấy rằng họ sẽ không sử dụng vũ lực để đàn áp. Chính vì vậy mà những cuộc biểu tình này đã nhanh chóng đạt đến ‘điểm ngưỡng’, điểm mà mọi người cảm thấy an toàn khi tham gia biểu tình, và vì vậy đã khiến cho cuộc biểu tình ngày càng lớn hơn, đến mức nhà lãnh đạo độc tài không còn lựa chọn nào khác ngoài việc từ bỏ quyền lực.

Trong các trường hợp khác, như ở Serbia năm 1997, Ukraine năm 2001, và Azerbaijan năm 2003, giới chóp bu vẫn trung thành với tổng thống, và lực lượng vũ trang đã thực hiện các biện pháp nhằm ngăn không cho các cuộc biểu tình đạt tới ‘điểm ngưỡng’, điều này khiến cho các cuộc biểu tình nhanh chóng xẹp xuống và thất bại.

Vì vậy, rõ ràng rằng sự thành công của các cuộc cách mạng hậu cộng sản có vai trò quan trọng của giới chóp bu trong chính quyền.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Lý thuyết biểu tình và cơ chế ngưỡng
Một trong những lý thuyết phổ biến dùng để giải thích biểu tình và cách mạng là ‘mô hình ngưỡng’. Mô hình này tập trung vào giải thích tại sao một số cuộc biểu tình ngày càng trở nên lớn hơn, trong khi một số khác thì không thể đạt được như vậy, chỉ gia tăng tới một điểm nào đó rồi xẹp xuống.

Mô hình này dựa trên hai ý tưởng cơ bản:

– Thứ nhất, các cá nhân sẽ đắn đo cân nhắc khi quyết định có tham gia biểu tình hay không. Các cá nhân khác nhau có ‘ngưỡng’ khác nhau – tức là mức chịu đựng khác nhau khi quyết định tham gia biểu tình;

– Thứ hai, những cân nhắc này sẽ phụ thuộc vào số lượng người đang tham gia biểu tình. Khi có nhiều người hơn tham gia, thì khả năng người biểu tình bị đàn áp giảm xuống, và vì vậy sẽ có nhiều người hơn nữa tham gia, và cơ hội thành công sẽ tăng lên.

Câu hỏi đặt ra là khi nào tiến trình này đạt “điểm ngưỡng”, tức thời điểm cuộc biểu tình tự động tăng lên?

Khi có thêm một người tham gia vào, khả năng thành công tăng lên đồng nghĩa với việc ngưỡng của những người biểu tình khác cũng tăng lên, và vì vậy họ sẽ tham gia vào cuộc biểu tình. Và cứ tiếp tục như thế với những người khác. Hay là việc thêm vào một người sẽ không thay đổi cơ hội thành công đủ để khiến cho chuỗi phản ứng trên diễn ra?

Cơ chế vận hành này có thể được minh họa thông qua câu nói của Oleksandr Omelchenko, thị tưởng thành phố Kyiv, với phụ tá của Viktor Yushchenko vào lúc khởi đầu của Cách mạng Cam: “Nếu bạn mang cho tôi 100.000 người, thì tôi sẽ tham gia với bạn, và chúng ta sẽ có cơ hội giành được quyền lực. Nếu chỉ có 99.000, tôi sẽ không tham gia”.

Từ trên, ta thấy hai dạng chu kì tự củng cố có thể xảy ra:

– Khi triển vọng tăng, nhiều người hơn sẽ tham gia vào biểu tình. Điều này tăng cơ hội thành công, và vì vậy nhiều người hơn nữa tham gia, cứ như thế.

– Trái lại, nếu mọi người hoài nghi về sự thành công, họ sẽ không tham gia. Điều này giảm đi cơ hội thành công, vì vậy chính những người tham gia cũng sẽ từ bỏ, và cứ như thế.

Theo chu kỳ này, các cuộc biểu tình cuối cùng sẽ xẹp xuống hoàn toàn, như từng xảy ra ở Serbia năm 1996-1997 và Ukraine năm 2001.

Từ viễn cảnh trên, câu hỏi chính ở đây là liệu người tổ chức biểu tình có thể gia tăng sự tham gia đến “điểm ngưỡng” mà ở đó cuộc biểu tình sẽ tự củng cố, hay liệu chính quyền có thể giữ cho sự tham gia ở bên dưới ngưỡng.

Trong bài viết này, để hiểu sự thành công và thất bại của các cuộc cách mạng hậu cộng sản, chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao ngưỡng lại có thể đạt được trong một số trường hợp, trong khi không đạt được trong những trường hợp khác.

Thời cơ chính trị và huy động
Đối với những nhà cách mạng thì việc huy động đủ người bất mãn cho đến khi đạt được điểm ngưỡng là một thách thức, vì sau đó cuộc biểu tình sẽ tự động gia tăng. Để làm được như vậy, trước tiên chúng ta tìm hiểu hai khái niệm: Năng lực huy động và thời cơ chính trị.

– “Năng lực huy động” liên quan đến khả năng (về mặt tổ chức) của phong trào trong việc thuyết phục người dân tham gia biểu tình, phối hợp các hoạt động, cũng như hỗ trợ vật chất cho cuộc biểu tình.

– “Thời cơ chính trị” là thời cơ mà việc huy động để có thể thành công. Thường liên quan đến cả mức độ đàn áp (sự an toàn khi tham gia biểu tình) lẫn các sự kiện hay chính sách cụ thể khiến cho (người dân tức giận, sẵn sàng tham gia) việc huy động trở nên dễ dàng hơn. Và gian lận bầu cử là một ví dụ về thời cơ chính trị.

“Năng lực huy động” tốt rõ ràng là một yếu tố quan trọng trong các cuộc ‘cách mạng màu”. Trong các trường hợp thành công, phe đối lập với ngân sách và tổ chức tốt, có thể tổ chức để nhiều người xuống đường hơn, duy trì biểu tình lâu dài và tiến hành các hoạt động thách thức chế độ hữu hiệu hơn. Tại Georgia năm 2004, cũng như ở Ukraine và Serbia trước đó, khả năng tổ chức biểu tình đã làm ngạc nhiên cả các nhà quan sát lẫn chính quyền.

Tương tự, “thời cơ cách mạng” đóng vai trò quan trọng. Trong các cuộc cách mạng thành công kể trên, gian lận bầu cử tạo điều kiện cho phe đối lập tập trung sự chú ý của người dân vào hành vi sai trái này của chính quyền, thổi bùng sự tức giận của họ. Rõ ràng rằng, gian lận bầu cử đã cung cấp một “thời cơ chính trị” lý tưởng.

Vai trò trụ cột của giới chóp bu
Giới này không chỉ bao gồm lãnh đạo của lực lượng vũ trang, vốn cực kì quan trọng, mà còn bao gồm các nhân vật quan trọng khác trong chính quyền (ví dụ: Các bộ trưởng), giới doanh nhân, chủ của các cơ quan truyền thông,… tất cả họ góp phần khiến cho các cuộc biểu tình đến gần hơn hay ra xa hơn điểm ngưỡng, qua đó ảnh hưởng đến thành công cũng như thất bại của chúng.

Chẳng hạn, thị trưởng và hội đồng thành phố Kyiv, đã góp phần quan trọng vào thành công của cuộc Cách mạng Cam năm 2004, khi phủ nhận kết quả bầu cử tổng thống vòng hai. Điều này không chỉ làm xói món tính chính danh của chính quyền, mà còn khiến cho những người biểu tình tiềm năng thấy rằng chính quyền thành phố sẽ ủng hộ, hoặc ít nhất, không ngăn cản họ, khiến cho họ sẵn sàng tham gia biểu tình.

Rõ ràng rằng, giới chóp bu đóng vai trò quyết định trong việc cuộc biểu tình có đạt “điểm ngưỡng” hay không, và qua đó quyết định sự thành công của biểu tình.

“Điểm ngưỡng” trong các cuộc cách mạng màu
Nhìn chung, để thành công, phe đối lập phải làm được hai điều này:

– Thứ nhất, phải huy động được số lượng người biểu tình đủ lớn và duy trì được họ đủ lâu để tạo áp lực lên chính quyền;

– Thứ hai, biến các cuộc biểu tình này trở thành yếu tố chi phối trong tính toán của người cầm quyền, khiến cho họ đi đến quyết định rằng tốt hơn hết là từ bỏ quyền lực. Nói cách khác, phe đối lập phải có khả năng dứt điểm cuộc chơi.

Việc thất bại của các cuộc biểu tình chống lại Milosevic vào năm 1996-1997 cho thấy, nếu chỉ huy động hàng ngàn người xuống đường trong thời gian dài sẽ không tự động buộc người cầm quyền từ bỏ quyền lực. Kẻ cầm quyền chỉ làm như vậy khi nhận thấy việc từ bỏ quyền lực sẽ tốt hơn việc chờ đợi với hi vọng người biểu tình sẽ bị đàn áp hoặc tự giải tán. Điều này đòi hỏi phe đối lập phải tạo ra những răn đe thực sự, như bắt giữ, bỏ tù hoặc giết chết nếu người cầm quyền từ chối từ bỏ quyền lực; kết hợp với những khuyến khích như miễn truy tố, chia sẻ quyền lực, hay đối thoại bàn tròn nếu kẻ cầm quyền chịu từ bỏ quyền lực.


CÁC TRƯỜNG HỢP

“Gian lận bầu cử” đã dẫn đến nhiều cuộc biểu tình lật đổ chế độ ở khắp nơi trên thế giới, bắt đầu với cuộc cách mạng ‘quyền lực nhân dân” lật đổ chế độ độc tài của Marcos vào năm 1986 tại Philippines. Trong thế giới hậu cộng sản, có ít nhất 8 nỗ lực cách mạng như vậy; trong đó 4 cuộc cách mạng thành công, được biết đến với tên gọi là “các cuộc cách mạng màu”; đồng thời cũng có một số nỗ lực khác không thành công trong việc sử dụng các cuộc biểu tình đường phố nhằm lật đổ các nhà lãnh đạo độc tài:

– Serbia, 1996-1997: Tức giận với các gian lận trong cuộc bầu cử địa phương, người dân Nam Tư đã biểu tình ở nhiều thành phố. Các cuộc biểu tình này kéo dài nhiều tháng và gia tăng về quy mô, tuy nhiên, đã không buộc được Milosevic từ bỏ quyền lực. Đến đầu năm 1997, các cuộc biểu tình suy yếu và chấm dứt.

– Serbia, 2000: Sau kết quả bầu cử tổng thống gian lận, biểu tình gia tăng đã buộc tổng thống Milosevic từ chức.

– Ukraine, 2001: Sau một loạt những bí mật bị tiết lộ về các hành vi sai trái của tổng thống Leonid Kuchma, một phong trào có tên gọi “Ukraine không Kuchma” đã tổ chức các cuộc biểu tình đường phố, tuy nhiên phong trào nhanh chóng thất bại.

– Georgia, 2003: Sau cuộc bầu cử tổng thống gian lận, người Georgia biểu tình, và thành công trong việc buộc tổng thống Eduard Shevardnadze từ chức.

– Azerbaijan, 2003: Sau cuộc bầu cử tổng thống gian lận, người biểu tình đổ ra đường để buộc Ilham Aliyev từ bỏ quyền lực. Các cuộc biểu tình bị lực lượng vũ trang ngăn chặn và cuối cùng chấm dứt.

– Ukraine, 2004: Sau cuộc bầu cử gian lận, các cuộc biểu tình buộc chính quyền đồng ý một điều khoản bao gồm tổ chức lại cuộc bầu cử tổng thống vòng hai cũng như thay đổi hiến pháp (và lãnh đạo phe đối lập đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử này).

– Kyrgyzstan, 2005: Sau cuộc bầu cử quốc hội được cho là không công bằng, các cuộc biểu tình đường phố buộc tổng thống Askar Akayev từ chức và rời khỏi đất nước.

– Uzbekistan, 2005: Sau vụ bắt giữ một doanh nhân nổi tiếng ở Andijan, người Uzbeks xuống đường biểu tình, sau đó mở rộng yêu cầu của mình bao gồm phóng thích mọi tù nhân chính trị. Tuy nhiên, họ bị đàn áp bằng bạo lực, khoảng 700 người đã bị giết.

----------------

29/12/2019

TÓM TẮT:

Từ năm 1999, các quốc gia hậu cộng sản đã chứng kiến một loạt các nỗ lực nhằm lật đổ các chế độ bán độc tài, trong đó các cuộc cách mạng thành công được biết đến với tên gọi “Các cuộc cách mạng màu”. Tuy nhiên, không phải tất cả các cuộc nổi dậy đều thành công. Bài báo này sẽ tìm cách giải thích sự đa dạng của các kết quả. Luận điểm trung tâm ở đây là giới chóp bu. Đặc biệt là các lực lượng vũ trang, đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc cách mạng. Quan trọng hơn nhiều so với những gì từng được khẳng định trước đó.

Hành động của giới chóp bu đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy các cuộc biểu tình đạt tới “điểm ngưỡng”, điểm mà tại đó số lượng người tham gia biểu tình tự động tăng lên tới mức khiến chế độ độc tài sụp đổ. Luận điểm này sẽ được kiểm chứng thông qua khảo sát, so sánh giữa hai phong trào thất bại trong việc lật đổ chế độ độc tài thông qua các cuộc biểu tình đường phố (ở Serbia 1996-1997 và Ukraine 2001) với hai phong trào thành công (ở Serbia 1999 và Ukraine 2004).

Dưới đây, chúng ta tập trung vào bốn trường hợp: các cuộc cách mạng thất bại ở Serbia năm 1996-1997 và Ukraine năm 2001, và các cuộc cách mạng thành công ở Serbia năm 2000 và Ukraine năm 2004. Với lựa chọn này, chúng ta có thể tiến hành hai so sánh: So sánh trong mỗi nước, giữa các cuộc cách mạng thành công và các cuộc cách mạng thất bại; so sánh giữa hai nước, không chỉ những điểm chung của các cuộc cách mạng thành công, mà còn của các cuộc cách mạng thất bại.

Serbia, 1996-1997
Vào ngày 17/10/1996, Serbia tổ chức các cuộc bầu cử địa phương, và biểu tình nổ ra ngay sau đó, bắt đầu từ thành phố Nis sau đó lan ra nhiều thành phố khác. Sự tức giận này của người dân đến từ việc kết quả bầu cử bị sửa đổi, khiến cho liên minh đối lập, Zajedno, bị cướp mất chiến thắng ở nhiều nơi, và được chuyển sang cho Đảng xã hội chủ nghĩa Serbia của Milosevic (SPS). Trong ba tháng sau đó, biểu tình gia tăng và lan rộng. Vào tháng 12, 150.000 người tham gia biểu tình ở Belgrade. Vào tháng 1/1997, biểu tình lên đến 500.000 người.

Cũng giống như biểu tình ở Ukraine sau đó, những người tổ chức đã tạo ra không khí lễ hội nhằm giữ cho cuộc biểu tình tiếp tục giữa mùa đông giá lạnh. Lúc này, cuộc biểu tình đã đạt tới quy mô mà thường đem lại thành công (trong các trường hợp khác). Tuy nhiên, biểu tình đã kết thúc sau 88 ngày, sau khi các lãnh đạo đối lập và Milosevic đạt được một số thỏa thuận. Milosevic chấp nhận nhượng bộ một số kết quả bầu cử địa phương, đổi lại các lãnh đạo đối lập đồng ý ngưng biểu tình. Điều này đã gây ra chia rẽ nghiêm trọng trong nội bộ phong trào. Và dù sinh viên tiếp tục biểu tình trong tháng kế tiếp, thì về cơ bản biểu tình đã bị đánh bại.

Trường hợp này khá thú vị bởi vì người biểu tình có đủ sự hỗ trợ để duy trì cuộc biểu tình trong suốt ba tháng. Tuy nhiên, họ lại không thể kết thúc cuộc chơi mà họ có thể thắng. Milosevic áp dụng hai chiến thuật là trì hoãn và chia để trị. Bằng việc không đáp ứng yêu cầu cũng không đàn áp bạo lực người biểu tình, ông quăng gánh nặng duy trì phong trào sang phía đối lập. Ông cho rằng nếu ông trì hoãn đủ lâu, các cuộc biểu tình sẽ mất đi động lực. Ông cũng tìm cách làm suy yếu phe đối lập bằng cách chia rẽ họ, và ông đã thành công trong việc kết nạp một số lãnh đạo đối lập bằng cách đáp ứng một số yêu cầu của họ.

Trong khi phe đối lập đã thực hiện một công việc đáng khâm phục là duy trì các cuộc biểu tình, họ lại không thể tạo ra một tình thế mà Milosevic buộc phải ra đi. Để làm được như vậy, các cuộc biểu tình cần phải trở nên lớn mạnh hơn, và có khả năng đưa ra một số đe dọa thực sự (có thể bằng bạo lực) đối với Milosevic. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra.

Hành vi của giới chóp bu đóng vai trò quyết định trong tường hợp này. Lãnh đạo của các đảng đối lập chia rẽ, liên tục đấu đá nhau, ngay cả khi họ đang tìm cách lật đổ Milosevic. Sự chia rẽ này khiến cho một số lãnh đạo đối lập tiến hành các thỏa thuận riêng với Milosevic, rời bỏ phong trào biểu tình để đổi lấy chức vụ. Sự phản bội của Vuk Draskovic, lãnh đạo Phong trào Serbia Mới đã gây ra tâm lý chán nản, khiến cho nhiều người mất hi vọng và “điểm ngưỡng” mà phong trào hướng đến không đạt được. Trong khi giới chóp bu đóng vai trò quan trọng trong việc khiến cho các cuộc biểu tình diễn ra và duy trì chúng, thì họ cũng đóng vai trò quyết định khiến cho nó kết thúc.

Serbia, 2000
Vào năm 2000, một loạt các cuộc biểu tình mới xuất hiện, và cuối cùng đã thành công trong việc loại bỏ Milosevic. Nguyên nhân của đợt biểu tình lần này đến từ cuộc bầu cử tổng thống Serbia vào ngày 24 tháng 9 năm 2000. Phe đối lập thống nhất, và ủng hộ cho một ứng viên có uy tín hơn nhiều so với cuộc bầu cử trước đó, Vojislav Kostunica; và họ cũng đã tổ chức giám sát bầu cử khi biết trước Milosevic sẽ gian lận bầu cử. Kết quả chính thức cho thấy Vojislav Kostunica về nhất, nhưng không giành được đa số tuyệt đối (>50%), do đó phải tiến hành bầu cử vòng hai. Tuy nhiên, thay vì tiếp tục tranh cử vòng hai, phe đối lập thông báo rằng có gian lận bầu cử và Kostunica thắng lợi với đa số tuyệt đối trong vòng một.

Để củng cố cho yêu sách của mình, cũng như gia tăng áp lực buộc Milosevic từ chức, vào ngày 27 tháng 9 năm 2000, phe đối lập huy động 300.000 người biểu tình ở Belgrade. Và điều quan trọng lúc này là họ đã học được kinh nghiệm năm 1996-1997, đó là một mình biểu tình sẽ không thể buộc Milosevic từ chức.

– Họ kêu gọi tổng đình công, và khi những người thợ mỏ ngừng cung cấp than cho các nhà máy điện, thì rõ ràng là đất nước có nguy cơ bị đình trệ.

– Thêm nữa, vào ngày 5/10, phe đối lập chiếm hầu hết các tòa nhà chính quyền lớn ở Belgrade, bao gồm đài truyền hình, từ đó Kostunica đọc diễn văn trước cả nước.

Cùng lúc đó, trái với hành động trung thành vào năm 1996-1997, những người ủng hộ Milosevic bắt đầu đào ngũ. Đây cũng là một phần của cơ chế ngưỡng: khi khả năng Milosevic bị lật đổ càng cao, thì giới chóp bu xung quanh ông càng mạnh dạn từ bỏ ông. Ngay cả những người từng ủng hộ ông, giờ đây cũng trở nên trung lập.

Điều này thể hiện rõ trong lực lượng vũ trang, khi quân đội công khai khuyến khích người biểu tình thông qua việc đảm bảo an toàn cho họ. Tổng tư lệnh quân đội, tướng Nebojsa Pavkovic, công khai tuyên bố quân đội sẽ trung lập và ủng hộ kết quả bầu cử (tức chiến thắng cho Kostunica). Dường như lãnh đạo phe đối lập đã liên hệ với Pavkovic từ trước, và có thể đã thỏa thuận với ông ta. Thực tế cho thấy, ông ta vẫn giữ được vị trí của mình sau cách mạng.

Sự thay đổi của quân đội khiến cho trò chơi kết thúc. Phe đối lập đã kiểm soát hầu hết chính quyền, còn lực lượng vũ trang hợp tác với họ. Tất cả còn lại với Milosevic chỉ là buộc phải thừa nhận rằng ông đã thua trong cuộc bầu cử, và ông đã làm điều đó vào ngày 6 tháng 10.

Ukraine, 2001
Vào cuối năm 2000, một nhóm các tổ chức đối lập ở Ukraine đã tiến hành các cuộc biểu tình đường phố để buộc tổng thống Kuchma từ chức. Nguyên nhân trực tiếp là do sự liên quan của Kuchma tới việc giết nhà báo Georgiy Gongadze (một nhà báo chống tham nhũng), còn nguyên nhân sâu xa hơn đến từ sự cai trị ngày càng độc tài của ông. Nhưng các cuộc biểu tình đã không thành công trong việc gia tăng số lượng và xẹp xuống vào mùa hè năm 2001. Không giống như các cuộc biểu tình ở Serbia năm 1996-1997, vốn được xem là ‘sự thất bại đáng tiếc”, thì cuộc biểu tình này chưa bao giờ đến mức đủ để đe dọa quyền lực của Kuchma.

Tại sao lại thất bại?

– Thứ nhất, phe đối lập dù hình được thành liên minh song vẫn còn nhiều chia rẽ. Dù “Mặt trận Bảo vệ Quốc gia” đại diện cho sự thống nhất của các lực lượng đối lập ở Ukraine, song nó không nhận được sự ủng hộ từ nhân vật đối lập nổi tiếng nhất ở Ukraine lúc đó, đó là Viktor Yushchenko.

– Thứ hai, hầu hết giới chóp bu vẫn trung thành với Kuchma, đồng thời sử dụng nhiều phương tiện ngăn không cho biểu tình gia tăng. Các tổ chức truyền thông, bao gồm các tổ chức do nhà nước kiểm soát lẫn các tổ chức độc lập, không đưa tin về quy mô của các cuộc biểu tình. Từ quan điểm của mô hình ngưỡng, đây là một chiến thuật rất hữu hiệu, bởi nếu quyết định của những người trung lập phụ thuộc vào quy mô của cuộc biểu tình, thì việc không đưa tin về quy mô của các cuộc biểu tình khiến cho biểu tình khó gia tăng số lượng. Thị trưởng Kyiv, Oleksandr Omelchenko, ngăn cản việc dựng lều ở Maidan khi thông báo một dự án xây dựng vốn không nằm trong kế hoạch.

Vì vậy, với việc rào quảng trường, ông đã khiến cho việc dựng lều khó khăn hơn. Khi có một kế hoạch biểu tình lớn vào ngày 10/4, thì việc di chuyển đến Kyiv đã bị ngăn chặn. Mọi người không thể mua được vé tàu, cũng như các ôtô hướng về Kyiv đều bị chặn. Tóm lại, để ngăn cuộc biểu tình, đã có sự phối hợp của của báo chí, Bộ giao thông, Bộ nội vụ, và chính quyền thành phố Kyiv. Các biện pháp này rất hữu hiệu trong việc ngăn chặn sự gia tăng số lượng người biểu tình. Do đó, không ngạc nhiên khi phong trào đã không thể lớn mạnh, và tất yếu là thất bại trong việc lật đổ Kuchma.

Ukraine, 2004
Vào năm 2004, Viktor Yushchenko liên minh với các lãnh đạo đối lập khác để chạy đua cho chức vụ tổng thống, chống lại Viktor Yanukovych, ứng viên được Kuchma chọn. Sau vòng bầu cử thứ hai, Yanukovych tuyên bố thắng cử, nhưng một kết quả kiểm phiếu song song (với kết quả chính thức) cho thấy Yushchenko mới là người chiến thắng. Hơn nữa, có bằng chứng thuyết phục về sự gian lận bầu cử rộng rãi.

Một phong trào được tổ chức tốt đã lôi kéo hàng nghìn người xuống đường ở Kyiv để phản đối kết quả bầu cử. Họ tiếp tục như vậy trong ba tuần liên tiếp bất chấp thời tiết băng giá, trong khi Yushchenko, Kuchma và những người khác đang đối thoại tìm giải pháp. Kết quả là cuộc bầu cử vòng hai bị hủy và tổ chức bầu cử lại với chiến thắng thuộc về Yushchenko. Đồng thời Yushchenko cũng đồng ý với một loạt cải cách hiến pháp nhằm hạn chế nhiều quyền lực của ông.

Có một sự tương phản lớn về hành vi của giới chóp bu trong các năm 2001 và 2004. Vào năm 2001, giới này vẫn còn trung thành với Kuchma, tuy nhiên mọi thứ đã thay đổi vào năm 2004. Trước khi biểu tình diễn ra, giới chóp bu tạo thuận lợi cho người biểu tình, bởi cả những gì họ làm và không làm. Và khi biểu tình bắt đầu, giới chóp bu khuyến khích các cuộc biểu tình, trong khi gây áp lực lên Kuchma và Yanukovych.

Sự thống nhất của phe đối lập có lẽ là sự thay đổi quan trọng nhất. Đặc biệt là việc Viktor Yushchenko và Yuliya Tymoshenko tham gia lực lương đối lập, điều mà trước đó họ không muốn. Thêm nữa, lực lượng đối lập cũng nhận được sự hỗ trợ tài chính từ giới doanh nhân, những người trước kia ủng hộ Kuchma (đáng chú ý là Petro Poroshenko). Không có sự ủng hộ tài chính của “những giới đầu sỏ đối lập này”, Yushchenko có thể dễ dàng bị Yanukovych đánh bại trong cuộc bầu cử.

Tuy nhiên, thú vị hơn, trước khi biểu tình diễn ra, lực lượng vũ trang đã không phong tỏa các con đường vào trung tâm Kyiv. Sinh viên và mọi người có thể đổ về Kyiv từ mọi miền đất nước bằng tàu điện, ô tô… Hơn nữa, giới chóp bu cũng ngầm cho thấy rằng Kyiv sẽ “để mở cho biểu tình”. Một thông điệp rõ ràng được đưa ra vào buổi sáng sau bầu cử vòng hai: Thị trưởng Oleksandr Omelchenko, người đã phong tỏa các con đường tới Maidan năm 2001, công khai tuyên bố thành phố sẽ không ngăn chặn biểu tình.

Lực lượng vũ trang cũng có vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho biểu tình gia tăng và lan rộng. Ngay trước các cuộc bầu cử, các tín hiệu được gửi đi cho thấy biểu tình sẽ không bị đàn áp. Khi biểu tình bắt đầu, các quan chức cấp cao trong Cơ quan An ninh Ukraine (SBU) liên lạc liên tục với lãnh đạo biểu tình để đảm bảo rằng không có hành động bạo lực, khiêu khích nào xảy ra. SBU cũng công khai các cuộc nói chuyện, trao đổi qua điện thoại của những người trong đội ngũ của Kuchma, trong đó họ thừa nhận đã sửa kết quả bầu cử. Tất cả những điều này giúp cho biểu tình lan rộng.

Khi cuộc khủng hoảng diễn ra, giới chóp bu đã không còn chia rẽ (giữa ủng hộ hay không ủng hộ), mà đã chuyển sang phe đối lập. Ở khía cạnh này, chúng ta có thể thấy cơ chế ngưỡng trong giới chóp bu tương tự cơ chế ngưỡng trong đám đông: Khi nhiều người hơn trong giới tinh hoa từ bỏ chính quyền, thì cơ hội tiếp tục nắm quyền của kẻ cầm quyền giảm đi, và rủi ro của việc ủng hộ tăng lên (nếu kẻ cầm quyền thất bại), do đó khuyến khích giới này từ bỏ chính quyền. Ví dụ, vào ngày 29/11, quản lý chiến dịch của của Yanukovych, là Serhiy Tyhypko từ chức, và thừa nhận có gian lận bầu cử. Giống như nhiều người khác, Tyhypko đã tính toán tương lai chính trị của bản thân về thời kì hậu Kuchma, và đã đưa ra quyết định như vậy. Cùng ngày, chính tổng thống Kuchma thông báo ủng hộ việc tổ chức lại bầu cử vòng hai, điều đã phá hủy sự ủng hộ cuối cùng dành cho Yanukovych.

So sánh các trường hợp
Việc so sánh các cuộc biểu tình thất bại vào năm 1996-1997 với cuộc cách mạng thành công vào năm 2000 ở Serbia, cũng như các cuộc biểu tình thất bại vào năm 2001 với cuộc cách mạng thành công vào năm 2004 ở Ukraine, mang lại nhiều bài học ý nghĩa. Trong cả hai nước, các cuộc biểu tình thất bại có nhiều điểm chung với các cuộc biểu tình thành công sau đó. Ở đây chúng ta có thể rút ra một số kết luận từ việc so sánh giữa Ukraine và Serbia như sau.

Sự thống nhất của phe đối lập
Trong cả hai nước, có một sự thay đổi lớn về lập trường trong giới tinh hoa đối lập giữa hai đợt biểu tình. Cụ thể ở Serbia, sự chia rẽ trong giới tinh hoa đối lập được xem là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong các cuộc biểu tình vào năm 1996-1997, và điều này khiến cho họ hiểu ra sự cần thiết phải thống nhất và đoàn kết. Tương tự ở Ukraine, việc Yushchenko không muốn tham gia phe đối lập khiến cho họ không có đủ sức mạnh để lật đổ Kuchma, không chỉ trong các cuộc biểu tình năm 2001, mà còn trong các cuộc bầu cử quốc hội vào năm 2002. Với uy tín rộng rãi của mình, nên việc ông ủng hộ Kuchma vào năm 2001 đã làm phe đối lập ở thế yếu, tương tự như sự trở cờ của Vuk Draskovic (khi bắt tay với Milosevic) làm suy yếu phe đối lập ở Serbia năm 1997.

Sự đào ngũ (trở cờ) của giới chóp bu trong chế độ
Sự đào ngũ của giới này thể hiện ở hai giai đoạn.

– Thứ nhất, trong suốt tiến trình, họ cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho phong trào và các đảng đối lập. Sự hỗ trợ này không chỉ giúp phe đối lập có đủ thực lực để cạnh tranh bầu cử, thậm chí ngay cả khi cuộc chơi không công bằng, mà còn giúp chuẩn bị cho các cuộc biểu tình, vốn được triển khai hiệu quả ngay sau bầu cử. Sức mạnh và khả năng thắng cử của phe đối lập buộc chính quyền phải gian lận bầu cử. Và điều đó đã biến cuộc bầu cử trở thành cơ hội chính trị cực kì tốt cho việc huy động người dân.

– Thứ hai, khi các cuộc biểu tình xảy ra, sự đào ngũ của giới chóp bu (từng ủng hộ chính quyền) đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cho cuộc biểu tình đạt điểm ngưỡng. Giới chóp bu kinh tế cung cấp ủng hộ tài chính cho phe đối lập, trong khi giới chóp bu chính trị cung cấp tính chính danh cho phe đối lập, cũng như sự đào ngũ của những nhân vật chóp bu quan trọng trong chế độ giúp làm xói mòn tính chính danh của chế độ; còn giới chóp bu trong lực lượng vũ trang hỗ trợ biểu tình dễ dàng hơn khi từ chối ngăn chặn biểu tình.

Biểu tình được tổ chức tốt (cộng với sự hỗ trợ của giới chóp bu)
Một trong những nguyên nhân thành công, đó là khả năng tổ chức biểu tình rất tốt, với các tổ chức nổi bật như Otpor ở Serbia, hay Pora ở Ukraine (mô phỏng theo Otpor). Họ không chỉ huy động được số lượng người tham gia đông đảo, lên đến hàng trăm ngàn, mà còn duy trì được các cuộc biểu tình này trong nhiều tháng trời. Rõ ràng rằng, các cuộc biểu tình như vậy đã gây áp lực rất lớn đối với chế độ, ảnh hưởng quan trọng với sự thành công của cách mạng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, các cuộc biểu tình được tổ chức tốt, là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ cho thành công. Chúng ta đã thấy vào năm 1996-1997, các cuộc biểu tình huy động được 500.000 người tham gia nhiều tháng, song vẫn không lật đổ được Milosevic.

Lực lượng vũ trang
Có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa các cuộc biểu tình thành công và các cuộc biểu tình thất bại đến từ vai trò của lực lượng vũ trang. Khi mà lực lượng vũ trang còn trung thành với chính quyền, người lãnh đạo sẽ cố gắng chờ đợi cho đến khi phong trào xẹp xuống. Đây là điều mà Milosevic đã làm vào năm 1996-1997. Chỉ khi lực lượng vũ trang bị chia rẽ, trở nên trung lập, hoặc thậm chí quay sang đứng về phía người biểu tình, thì những người cầm quyền mới dễ bị tổn thương, khi họ bị đặt vào hoàn cảnh mà việc tiếp tục bám víu quyền lực không còn là một lựa chọn tối ưu cho họ.

KẾT LUẬN:

Rõ ràng rằng, các cuộc biểu tình rộng lớn là nền tảng cho sự thành công của các cuộc cách mạng. Tuy nhiên giới chóp bu đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định liệu các cuộc biểu tình này có trở nên lớn hơn hay sẽ suy yếu và xẹp đi.

Nhìn chung, có một mối quan hệ rõ ràng giữa hành vi của giới chóp bu và sự tham gia của người dân: bằng cách gia tăng cơ hội thành công của các cuộc biểu tình, và giảm thiểu rủi ro cho việc tham gia biểu tình, tức việc bị đàn áp. Giới chóp bu (trước đó ủng hộ chế độ, giờ thay đổi thái độ) đã khiến cho các cuộc biểu tình dễ dàng đạt được “điểm ngưỡng” mà ở đó các cuộc biểu tình tự động gia tăng và duy trì.

Việc hỗ trợ cho phong trào, công khai những sai trái của chế độ, hình thành một phong trào đối lập thống nhất, cho phép biểu tình xảy ra, cũng như ngầm cho người biểu tình hiểu rằng họ sẽ không bị đàn áp. Tất cả những điều đó khiến cho mọi sự tính toán thiệt hơn nghiêng về phía có lợi cho việc tham gia biểu tình, và vì vậy thúc đẩy nhiều người hơn tham gia vào các cuộc biểu tình.

Ngoài ra, áp lực nội bộ của giới chóp bu lên người đương nắm quyền, cũng góp phần kết thúc trò chơi. Bằng việc thuyết phục người cầm quyền rằng, không còn giải pháp nào khác, và ra đi là cách tốt nhất cho họ (để tránh những kết quả xấu hơn, cho cả bản thân họ cũng như phe nhóm của họ) đã góp phần kết thúc trò chơi.

Rõ ràng rằng, lựa chọn của giới tinh hoa (trung thành hay chống lại) quan trọng trong việc làm xói mòn nền tảng của người cầm quyền, quyết định thành công của cách mạng, bên cạnh vai trò quan trọng của các cuộc biểu tình rộng lớn.

Lưu ý: Không chỉ các nhà cách mạng có thể học các bài học từ những ví dụ trên, và áp dụng cho tương lai; như Pora học từ Otpor…; mà chính các nhà độc tài cũng học hỏi những điều như vậy.

Nga, Belarus và nhiều nước khác đã tiến hành các biện pháp ngăn chặn trước nhằm đảm bảo “các yếu tố” của “cách mạng màu” không xuất hiện trên đất nước của họ. Cuộc bầu cử năm 2006 ở Belarus là một ví dụ: phong trào đối lập tìm cách bắt chước các chiến thuật thành công ở Ukraine, trong khi tổng thống Lukashenka tìm cách học từ cách sai lầm của chính quyền Kuchma.

Do đó, để thành công, việc học những bài học trong quá khứ là cần thiết, tuy nhiên, cần phải học với sự sáng tạo, linh hoạt để có thể vượt lên trên đối thủ của mình (những kẻ cũng học các bài học từ quá khứ).






No comments:

Post a Comment

View My Stats