“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (Hồ Chí Minh – Báo Cứu quốc,
17-10-1945).
Một cuộc điều tra của
Bộ NN&PTNT từ 10 năm trước tại 135 xã và 117 Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp của
46 tỉnh, thành trên cả nước, kết quả cho thấy, người nông dân ngoài phải nộp
các khoản phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước còn phải nộp 30 đến 50 khoản
phí khác không nằm trong danh mục, chủ yếu do chính quyền địa phương tự đặt ra
(Tuổi Trẻ online 25-7-2013). Tin này được nhiều báo đưa đi đưa lại, cùng với
tin tức một hạt lúa phải “cõng” mấy chục khoản đóng góp từ một bài báo trên báo
Nông thôn ngày nay được giải nhất Giải thưởng báo chí quốc gia trước đó, đến
nay vẫn chưa thấy tin tức nói nơi nào giảm một khoản đóng góp nào.
Báo Nhân Dân của
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không đứng ngoài cuộc khi khẳng định “một
hạt thóc hiện nay còn phải “cõng” tới hàng chục loại phí”, theo báo này thì đó
là một trong những nguyên nhân “hiện nay ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hải
Dương, Hà Nội… ngày càng có nhiều hộ nông dân bỏ ruộng và làm đơn trả ruộng,
kéo nhau ra phố làm ăn”, báo này còn dẫn chứng “tại các tỉnh Ninh Bình, Thanh
Hóa, Nghệ An đã có đến 2.011,90 ha đất ruộng bị người dân bỏ hoang và trả lại
chính quyền; số hộ nông dân bỏ ruộng là 6.040 hộ, số hộ nông dân trả ruộng là
2.009 hộ” (Nhân Dân điện tử 16-6-2014).
Gánh nặng của nông
dân, theo xác nhận của báo Đảng, là không thể chịu đựng nổi. Đó là chưa kể sự bấp
bênh về tài sản khi bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu nông dân cũng có thể bị
chính quyền thu hồi đất giao cho các đại gia làm dự án theo Điều 62 Luật Đất
đai mà tôi đã nhiều lần đề cập.
Lâu nay các các
giáo trình lịch sử và phương tiện truyền thông (cả của Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Việt Nam cộng hòa và CHXHCN Việt Nam) đều lên án thực dân Pháp đô hộ nước
ta với sưu cao thuế nặng “bòn rút tận xương tủy” dân ta. Nhiều công trình
nghiên cứu cũng lặp đi lặp lại lời tố cáo đó, nhưng cả trong tuyên truyền lẫn trong
nghiên cứu đều hầu như không dẫn số liệu so sánh.
Đọc cuốn sách “Việt
Nam dưới thời Pháp đô hộ” của giáo sư Nguyễn Thế Anh ta thấy có nhiều thông
tin đáng chú ý (*). Cuốn sách của giáo sư Anh không hề có chút biện minh gì cho
thực dân Pháp, ngược lại ông còn lên án gay gắt bọn đô hộ, riêng về thuế má của
thực dân ông cho là hết sức nặng nề. Theo ông thì mức thuế tại Nam Kỳ thời Pháp
thuộc là cao hơn so với thuế má của triều Nguyễn. Còn nông dân Bắc Kỳ thì chịu
thuế nặng nề nhất.
Ông dẫn chứng các số
liệu ước lượng : Một gia đình Bắc Kỳ gồm 5 người và có 3 mẫu ruộng, nghĩa là
thuộc hạng tương đối khá giả, phải chi tiêu đồng niên 80 đồng bạc vào năm 1934,
thì chi cho thực phẩm 50 đồng, chi cho tết nhất 12 đồng, thuế má 10 đồng (chiếm
12% chi phí)… Còn một gia đình nông dân nghèo khổ có 6 con mỗi năm phải chi
tiêu 45 đồng, trong đó tiền thuế chiếm 4,2 đồng (chưa đến 10%). Đối chiếu với
ngày nay thì nặng hay nhẹ mọi người có thể tự suy ra.
Trong các loại thuế
mà người nông dân phải đóng góp thì thuế thân nặng nhất. Đến năm 1937, toàn quyền
Đông Dương Brévié đã công bố quyết định cải tổ chế độ thuế khóa, trong đó thuế
thân đồng hạng cũ được thay bởi các loại thuế lợi tức: Ở Bắc Kỳ, thuế lợi tức
là 1 đồng cho những lợi tức dưới 120 đồng và lên 220 đồng cho những lợi tức
trên 6000 đồng. Vào năm 1939, trong tổng số 2.196.932 người nộp thuế ở Bắc Kỳ,
chỉ có 114 người trả 250 đồng, 1.502.447 người chỉ trả 2,5 đồng và 483.136 người
chỉ trả 1 đồng thuế lợi tức. So với thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập
doanh nghiệp ngày nay, nặng hay nhẹ mọi người cũng có thể tự suy ra.
Chúng ta cứ nghĩ rằng
thực dân Pháp đã bòn rút thuộc địa để mang tài sản về chính quốc. Nhưng số liệu
giáo sư Anh dẫn ra sau đây cho thấy:
Ở Nam Kỳ ban đầu áp
dụng thuế thân nặng hơn triều Nguyễn, cùng với các loại thuế đánh lên thuyền
bè, thuế môn bài, thuế muối, thuế lưu trú của Hoa kiều…, sau đó còn đánh thuế
rượu, thuế nha phiến và thuế cờ bạc, nên chính quyền thuộc địa không những cân
đối được ngân sách mà còn có thặng dư. Nhưng sau đó, thấy mức thuế quá nặng nên
Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers đã cho giảm mạnh thuế thân và thuế điền thổ,
để bù cho khoản thất thu, ông đánh thuế lên gạo xuất cảng, sắc thuế này chỉ các
đại thương gia mới chịu chứ không có ảnh hưởng nào đối với tiểu nông.
Từ năm 1885 đến đầu
năm 1887, ngân sách của chính phủ Pháp cáng đáng mọi kinh phí ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ. Từ năm 1887 trở đi, kinh phí này do ngân sách địa phương đảm trách, chính
phủ Pháp chỉ trợ cấp mỗi năm một khoản nhất định, từ sau năm 1892 thì không trợ
cấp nữa, nhưng chính phủ Pháp vẫn chịu mọi phí tổn về quân sự. Từ khi thiết lập
Phủ toàn quyền Đông Dương, ngân sách của “liên bang” Đông Dương chủ yếu được
thu từ ba loại thuế công quản : thuốc phiện, rượu và muối. (Lưu ý một nghịch
lý: Hồi đó thuốc phiện được bán tự do đánh thuế cao, nhưng số người nghiện chắc
không tràn lan kinh khủng như ngày nay chúng ta cấm). 3 loại thuế này chiếm tới
70% nguồn thu cho ngân sách Đông Dương (phần còn lại thu từ quan thuế, thuế trước
bạ và thuế bưu chính). Các loại thuế thân, thuế điền thổ, thuế môn bài, thuế tư
ích, thuế thuyền bè là nguồn thu của ngân sách địa phương cho cả ba xứ Bắc,
Trung, Nam kỳ, với mức chịu thuế “hết sức nặng nề” như đã dẫn ở trên.
Xin nói thêm: Kể từ
khi người Pháp thành lập Bệnh viện đầu tiên của Chính phủ là bệnh viện Chợ Quán
Sài Gòn vào năm 1864, đến năm 1939 đã có 25 bệnh viện toàn khoa, 104 trung tâm
y hoa, 170 bệnh xá, 105 chẩn y viện, 221 nhà hộ sinh, 43 trung tâm chuyên môn
(nhà thương điên, nhà thương hủi…)… Tuy chỉ có 1 thầy thuốc cho 20 ngàn dân và
chủ yếu đặt ở thành thị, nhưng người Pháp đã có rất nhiều nỗ lực trong phòng chống
bệnh tật cho dân chúng. Tổ chức vệ sinh được điều khiển bởi các Viện Pasteur ở
Sài Gòn, Nha Trang, Hà Nội và Đà Lạt. Riêng trong năm 1938, đã có trên phân nửa
dân chúng được chủng đậu và chích ngừa dịch tả. Tất nhiên so với sự nghiệp y tế
đồ sộ của chúng ta ngày nay thì những gì người Pháp làm được chỉ là con muỗi, họ
chỉ hơn ta một chút xíu: Người
Pháp phòng chữa bệnh cho dân ta hoàn toàn miễn phí, còn ta thì không.
Viết cái tút này
tôi hoàn toàn không có ý gì đề cao người Pháp. Tôi chỉ bị thôi thúc bởi lời nói
của cụ Hồ dẫn ở đầu bài. Nếu như dân ta được giảm nhẹ gánh nặng thuế má và các
khoản đóng góp để thực sự được “hạnh phúc tự do” thì việc lên án thực dân Pháp “bóc
lột tận xương tủy” dân ta là rất đúng.
Còn nếu chưa được
như vậy, thì … tôi bỗng nhớ mấy câu thơ của Việt Phương :
“Ta có thể nói với
quân thù những lời bình tĩnh
Tất cả những gì xấu
xa của tao là thuộc về mày
Tất cả những gì tốt
đẹp của mày là thuộc về tao”.
Xin hết ạ.
HOÀNG HẢI VÂN
_____
(*) Giáo sư Nguyễn
Thế Anh, từng là Giám đốc nghiên cứu Trường Cao đẳng thực hành Sorbone – Paris,
là học giả uy tín có nhiều công trình sử học rất có giá trị. Sách in ở Sài Gòn
năm 1970, được NXB Văn Học, Hà Nội, tái bản năm 2008.
No comments:
Post a Comment