Mark
Moyar – Điểm sách (Trà
Mi lược dịch)
POSTED ON APRIL 22, 2021
http://54.213.87.54/2021/04/22/dung-quen-thang-tu-den/
“Tháng Tư Đen” là một
lời nhắc nhở đúng mức với chính phủ Mỹ về thiệt hại nhân mạng khi bỏ rơi đồng
minh đang bị bao vây.
https://si.wsj.net/public/resources/images/RV-AG730_VIETNA_G_20120504030531.jpg
Việt Nam, tháng 4,
1975. Book Review: Black April – WSJ. Nguồn ảnh: Getty Images
Bỏ rơi Việt Nam
Từ lúc chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời
toà Đại sứ ở Sài Gòn vào tháng Tư năm 1975, sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đã
đề tài chính trong các cuộc tranh luận của Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Phe bồ
câu cho rằng thất bại của miền Nam Việt Nam vì chính phủ miền Nam suy yếu và
không có chính nghĩa, củng cố lập luận đồng minh của Mỹ đã không xứng đáng được
viện trợ. Nhóm diều hâu đổ lỗi cho việc mất miền Nam Việt Nam vì viện trợ Hoa Kỳ
bị cắt đứt – phù hợp với niềm tin của nhóm diều hâu rằng các chính khách Mỹ đã
điên rồ bỏ rơi phần đất mà gần 60.000 binh sĩ Mỹ đã chết để bảo vệ.
Tuy nhiên, không giống như các trang lịch sử
trước đó của cuộc chiến, giờ phút cuối cùng của VNCH chỉ được các nhà sử học
xem xét lướt qua. Tác giả viết lịch sử, được cho là toàn diện, của cuộc chiến
có xu hướng lướt nhanh qua giai đoạn 1973-1975. Trong thời gian đó, không có lực
lượng chiến đấu của Mỹ tại Việt Nam và báo giới cùng các quan chức dân sự Mỹ
cũng quan tâm rất ít đến Việt Nam; học giả, vì thế, có ít nguồn tài liệu bằng
tiếng Anh để tham khảo.
Cuốn “Tháng Tư Đen” của George J. Veith đã lấp
đầy khoảng trống lịch sử đó một cách khác thường. Tác giả George Veith đã đào
sâu vào những nguồn tài liệu Việt Nam bị bỏ quên trước đó, gồm cả lịch sử của Bắc
Việt, và ông đã phỏng vấn nhiều vị chỉ huy đơn vị chiến đấu miền Nam Việt Nam.
Trong cách kể tỉ mỉ, Veith trình bày cả núi chi tiết mới đã cho phép ông trả lời
các câu hỏi chính của lịch sử.
Mặc dù các nhà lãnh đạo miền Nam Việt Nam đã
làm một số lỗi nghiêm trọng trong cuộc tấn công năm 1975 của Bắc Việt, ông
Veith nói, không thể đổ thất bại vì chính phủ vớ vẩn được và chắc chắn không phải
vì khả năng chiến đấu kém cỏi của quân đội VNCH. Ở vào lúc đó lãnh đạo quân đội
miền Nam Việt Nam, gồm nhiều sĩ quan đã chiến đấu giỏi, đẩy lui cuộc tấn công
mùa Hè đỏ lửa năm 1972 và các cuộc đụng độ lớn nhưng ít được biết đến trong những
năm 1973 và 1974. Trong cuộc tấn công cuối cùng của Bắc Việt, cấp chỉ huy và
các đơn vị của miền Nam Việt Nam đã chiến đấu giỏi hơn nhiều người đã tưởng.
Nếu người Mỹ còn nhớ, một chiến thắng của miền
Nam Việt Nam vào năm 1975, đó là trận chiến Xuân Lộc, ở đó một sư đoàn của quân
đội miền Nam Việt Nam đã đập tan 3 sư đoàn Bắc Việt. Tuy nhiên, ông Veith cũng
ghi lại một số các cuộc đụng độ khác, trong tháng Ba và tháng Tư năm 1975, chứng
tỏ sức đề kháng mãnh liệt của quân đội VNCH – từ Mỏ Tàu và Núi Bông ở địa đầu
giới tuyến, đến Bến Cầu và Chơn Thành ở vùng biên giới, rồi Cần Thơ và Long An ở
phía nam.
Ông Veith chứng minh một cách thuyết phục rằng
nguyên nhân gốc rễ đưa đến thất bại của miền Nam Việt Nam chính vì Quốc hội Hoa
Kỳ đã cắt giảm viện trợ năm 1974, khi đó viện trợ quân sự đã giảm gần một nửa.
Khi Bắc Việt bắt đầu tấn công dữ dội từ tháng 3 năm 1975, miền Nam Việt Nam đã
rơi vào tình trạng thiếu nhiên liệu máy bay và phụ tùng thay thế, không cho
phép quân đội chuyển quân đến để củng cố mạn sườn, dễ bị tấn công dài 900 dặm,
về phía tây. Bắc Việt do đó được tự do tập trung các cuộc tấn công,với số lượng
áp đảo, vào các thị xã, thành phố chính yếu.
Chiến trường An Lộc
(1972). Nguồn ảnh: http://induced.info
Do sự khan hiếm lực lượng không vận, đe dọa
quân đội Nam Việt Nam, trong tình trạng hiểm nghèo, thường xuyên phải rút lui bằng
xe tải hoặc đi bộ. Thường dân chạy phía sau các binh sĩ, sợ bị các lực lượng cộng
sản tàn sát, những người đã thảm sát dân Huế năm 1968 và thường dân dọc theo Quốc
Lộ 1 vào mùa Hè đỏ lửa năm 1972. Phụ nữ và trẻ em và các loại xe dân sự làm tắc
nghẽn cầu, đường, làm cuộc di tản chậm lại. Do đó, một số đơn vị chiến đấu bị
quân Bắc Việt chận đường và tiêu diệt.
Khi cuộc di tản chiến thuật, khi lực lượng Nam
Việt Nam cố gắng để tạo thành một vành đai phòng thủ tại thành phố Đà Nẵng, thì
hơn một triệu thường dân đã đổ tràn vào thành phố của 500.000 người đang trong
trạng thái hoảng loạn. Đường phố đã kẹt cứng vì giao thông dân sự, ông Veith giải
thích, do đó sự vận chuyển của xe quân sự và hình thành đội quân lớn đã không
thể phối hợp được. Một số binh sĩ bỏ đơn vị mình để bảo vệ thân nhân hoặc giúp
họ chạy trốn. Tướng Ngô Quang Trưởng, một tướng lãnh tài ba và lôi cuốn của
VNCH, đã quyết định tổ chức quốc phòng là điều không thể thực hiện được, ông đã
ra lệnh sơ tán của quân đội chiến đấu bằng đường biển. Một số binh lính miền
Nam Việt Nam đã thoát khỏi bằng tàu thuỷ, nhưng hàng ngàn người khác đã bị đơn
vị quân đội Bắc Việt đang ồ ạt truy đuổi và bắt sống trên bãi biển.
“Tháng Tư Đen” cho thấy rằng việc cắt giảm viện
trợ của Mỹ quá nhanh khiến niền Nam Việt Nam đã không thể đánh bom các lực lượng
của đối phương ngay cả khi họ đang tụ tập đông đảo và là mục tiêu mời gọi. Lực
lượng không quân Nam Việt Nam không thể bay đủ phi vụ, và khả năng của không
quân tiếp tục bị xói mòn khi các sân bay bị quân Bắc Việt tràn ngập. Trong
tháng Giêng năm 1973, Tổng thống Nixon đã hứa với Việt Nam là không lực Mỹ sẽ
đánh tan quân Bắc Việt nếu họ đã vi phạm hiệp định ngưng bắn sắp được ký kết tại
Paris. Nhưng sau đó vụ Watergate bùng nổ, và Quốc hội, dùng Nghị quyết Quyền lực
Chiến tranh 1973, để ngăn cản người kế nhiệm TT Nixon, là TT Gerald Ford, thực
hiện các cam kết với VNCH.
Mặc dù miền Nam Việt Nam có 763.000 người vào
năm 1975, sự hạn chế di động chiến lược chỉ cho phép quân đội VNCH tập trung
110.000 binh sĩ làm phòng tuyến sau cùng ở Sài Gòn. Quân Bắc Việt, có 350.000
quân được cung cấp đa dạng nhờ sự thay đổi biến đường mòn Hồ Chí Minh thành một
đường trải nhựa và có cả đường ống dẫn dầu bên cạnh. Mặc dù trước tình hình tuyệt
vọng, ông Veith lưu ý, nhiều đơn vị miền Nam Việt Nam đã chiến đấu đẩy lui nhiều
cuộc tấn công lớn của quân Bắc Việt Nam tại Sài Gòn và phản công có hiệu quả.
Theo ước tính của riêng Hà Nội, lực lượng Bắc Việt Nam có 6.000 binh sĩ tử
thương trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Người lính miền Nam Việt Nam
đã chiến đấu cho đến khi chính phủ (Dương Văn Minh) mới được dựng lên ra lệnh đầu
hàng với ảo vọng được phe thắng trận nhượng bộ.
https://www.historynet.com/wp-content/uploads/2012/11/VietnamReviewBlackApril.jpg
Black April của
George Veith; 587 trang, 29.95 USD. Nguồn ảnh: NXB Encounter Books
Hơn 100.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà tử
thương trong các trận chiến cuối cùng, hay đã bị xử tử ngay sau đó hoặc đã chết
dần mòn vì bị ngược đãi trongcác trại “cải tạo” khổng lồ. Nửa triệu người miền
Nam Việt Nam đã chết trên đường chạy trốn sự đàn áp cộng sản. Trong lúc đang
toan tính viện trợ cho Afghanistan trong tương lai, “Tháng Tư Đen” là một lời
nhắc nhở đúng mức với chính phủ Mỹ về thiệt hại nhân mạng khi bỏ rơi đồng minh
đang bị bao vây.
© 2012-2021 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
Nguồn: Bài đăng lần đầu trên
DCVOnline.net ngày 06-05-2012
No comments:
Post a Comment