Câu
chuyện cải lương, câu chuyện Việt Nam Cộng hòa
VÕ
VĂN QUẢN - LUẬT KHOA
20/04/2021
https://www.luatkhoa.org/2021/04/cau-chuyen-cai-luong-cau-chuyen-viet-nam-cong-hoa/
Sự suy tàn của hai
biểu tượng một thời rực rỡ
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2021/04/image-28.jpeg
Rạp cải lương Hưng
Đạo trên đường Nguyễn Cư Trinh, Sài Gòn năm 1965. Ảnh: Frank O’Rear
Trong các vở cải lương, khán giả chỉ muốn nghe phần
hát, vọng cổ. Nhiều nghệ sĩ phô trương độ dài của hơi thở bằng cách hát hàng
trăm từ trong một hơi, nhưng không thể hiện được nội dung gì.
Hành vi, cử chỉ của người diễn thường sáo rỗng hoặc
theo thói quen, họ thậm chí còn không cố gắng thể hiện cảm xúc nhân vật hay bối
cảnh thực tế.
Mặt khác, họ trưng bày sự xa hoa sặc sỡ của các bộ
quần áo mới của đoàn hát, họ phô trương vẻ trẻ đẹp của dàn diễn viên, nhưng khi
diễn thì không làm gì hơn là để lộ vài phần cơ thể để chọc cười rẻ tiền […]”
Hoàng Như Mai, một
học giả nhà nước có tiếng, bình luận như vậy trong bài viết “Sân khấu các tỉnh
phía Nam trong mười năm qua”, thuộc quyển “Mười năm xây dựng nền văn hóa mới,
con người mới tại miền Nam (1975-1985)” (*). Đây là một dạng báo cáo tổng kết
quen thuộc trong mọi lĩnh vực để đánh giá liệu con người của vùng đất mới bị
chinh phạt đã có những “tiến bộ” gì để bắt kịp với văn hóa chủ nghĩa xã hội hay
chưa.
Trớ trêu hơn, Hoàng Như Mai vẫn thường được tụng xưng là “người thầy giáo”, “người đóng góp lớn”
cho sự “phát triển” của cải lương miền Nam.
Góc nhìn của ông cho thấy phần nào góc nhìn của
nhà nước Việt Nam nói chung đối với cải lương, cũng như cách tiếp cận của họ với
bộ môn nghệ thuật này.
Cải lương vẫn thường bị các trí thức cộng sản
phê phán là một hình thức sân khấu lai căng, thừa mứa và ủy mị. Nhưng mặt khác,
họ cũng nhận thấy ở cải lương khả năng thao túng cảm tình đám đông để xây dựng
tính cách xã hội chủ nghĩa.
Sự lo ngại của Đảng Cộng sản trước năng lực tạo
nên bản sắc danh tính riêng ngoài danh tính xã hội chủ nghĩa và tính trung hòa
lịch sử của cải lương trước các lực lượng ngoại bang từ Trung Quốc, Pháp đến
Hoa Kỳ lý giải phần nào mong muốn kiềm chế và “cải tổ” cải lương ngay sau 1975.
HÌNH : Rạp Hưng Đạo, nơi từng được xem là
“thánh địa” của cải lương ở Sài Gòn trước 1975, nay trở thành Nhà hát cải lương
Trần Hữu Trang, một công trình xây lỗi. Ảnh: Tom Robinson (trái), Báo Người Lao Động, Báo
Pháp Luật (phải).
Khác với hình ảnh huy hoàng, danh giá; khác với
tiếng tăm và khả năng làm giàu của các đoàn cải lương trong thời kỳ Việt Nam Cộng
hòa, cải lương đương đại đã đi đến thời khắc cuối cùng của nó. Cải lương giờ
đây chỉ có thể sống lang bạt ở các viện bảo tàng và các chương trình bảo tồn di
sản, thay vì đóng góp tích cực vào việc định hình danh tính, tâm tư và ý chí
riêng của một cộng đồng dân cư như nó đã từng.
Cái kết của cải lương và Việt Nam Cộng hòa, dù
khác thời điểm, nhưng cùng chung đâu đó đều là câu chuyện về sự suy tàn của một
cộng đồng từng phát triển rực rỡ.
Cải lương và Việt
Nam Cộng hòa: kết tinh riêng độc đáo của miền Nam Việt Nam
Khái niệm “cải lương” trong tiếng Việt khó hiểu hơn là thuật ngữ tiếng
Anh tương đương của nó. Trong tiếng Anh, cải lương được gọi là “reformed opera”
hoặc “renovated theatre”, chỉ một hình thức hát kịch sân khấu cải cách. Nhưng cải
cách từ đâu?
Có ba nguồn ảnh hưởng chính của cải lương.
Trước tiên, dễ nhận thấy và dễ hiểu, là từ hát
bội của Trung Quốc.
Hát bội được cho là phát triển tại Việt Nam từ
sau khi Trần Hưng Đạo đánh bại lực lượng quân Nguyên giai đoạn 1228 – 1330.
Trong số các tù binh nhà Trần bắt được, có một nghệ sĩ người Hoa theo hình thức
hát bội (zaju) tên là Lý Nguyên Cát được giữ lại để dạy và phát triển hình thức
nghệ thuật này tại Việt Nam.
Trong nhiều thế kỷ sau đó, hát bội tiếp tục
phát triển tại Việt Nam với sự nhập khẩu của nghệ thuật hát bội từ Trung Quốc.
Hình thức nghệ thuật này tương tác với văn hóa Chăm (vốn trở thành một phần của
Việt Nam vào thế kỷ 15) và tạo nên một số biến thể địa phương mới như “hát
nam”.
Cải lương vay mượn phong cách sân khấu, sự
khoa trương thậm xưng của diễn xuất, cảm xúc, và sự nhấn mạnh vào hình thể của
hát bội để tạo nên diện mạo của mình.
Sân khấu cải lương
đoàn Thanh Minh Thanh Nga theo phương châm “thực và đẹp, khác hẳn với hát bội”.
Trong hình là tuồng “Tình sử Dương Quý Phi”. Ảnh: Huỳnh Công Minh/Màn Ảnh Sân
Khấu.
Về âm nhạc, cải lương sử dụng nguồn âm nhạc và
ngôn ngữ thuần túy Nam Bộ.
Được biết đến với tên gọi “nhạc tài tử”, hoặc
trước đó là “ca ra bộ”, âm nhạc trong cải lương có gốc là kiểu hát kịch có cử
chỉ – một cách kể chuyện với âm nhạc. Ca ra bộ được người Pháp ghi nhận đã xuất
hiện trong nhiều buổi gây quỹ địa phương hoặc trong các chương trình tạp kỹ tại
Nam Kỳ từ đầu những năm 1900.
Cuối cùng, lối dẫn chuyện và phong cách kịch
nói thì rõ ràng là chịu ảnh hưởng của chính kịch Pháp, từ kinh nghiệm dàn dựng
sân khấu (hậu đài lẫn tiền đài), cách trang điểm, bối cảnh và kỹ thuật dẫn chuyện.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2021/04/image-5.png
Một phân đoạn trong
vở cải lương “Con gái chị Hằng” năm 1961. Bối cảnh và sân khấu đặc biệt mang
phong cách Pháp. Ảnh: Huỳnh Công Minh/ Màn Ảnh Sân Khấu.
Cùng lúc đó, các sản phẩm âm nhạc cải lương là
sự kết hợp liên hồi của ngôn ngữ, nhạc cụ và bối cảnh Tây – Hoa – Ta.
Ta thử lấy ví dụ về bài vọng cổ Dạ Cổ
Hoài Lang của Cao Văn Lầu, tác phẩm được sáng tác vào năm 1918. Ngôn
ngữ trong tiêu đề và lời ca vừa đậm tính Hoa, vừa đậm tính Việt. Trong khi đó,
nhạc cụ được sử dụng thì vô cùng đa dạng, với sáo, tiêu, đàn tranh, đàn bầu cho
đến guitar và violin.
Theo cách nói của Vương Hồng Sển trong quyển
“Hồi ký 50 năm mê hát”, cải lương là cách con người Nam Bộ chôn giấu niềm yêu
nước trong những năm tháng thuộc địa, nhưng cũng đồng thời là cách để thỏa hiệp
và tìm niềm vui trong xã hội mới.
Đâu đó, chúng ta cũng thấy trong Việt Nam Cộng
hòa sự pha trộn, thỏa hiệp cũ – mới của cải lương.
Chúng ta thường được nghe rao giảng rằng chỉ
có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới có tính chính danh lịch sử sau Đệ nhị thế chiến,
nhưng thực tế thì không hề đơn giản như vậy.
Hiệp định Sơ bộ Pháp – Việt (Franco – Vietnam
Agreement 1946, hay Ho – Sainteny Agreement) xác định rõ Pháp thừa nhận chính quyền Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ở miền Bắc (VNDCCH) có tư cách là một nền cộng hòa độc lập thuộc Liên
bang Đông Dương (Indochinese Federation), một thành viên không thể tách rời của
Liên Hiệp Pháp (French Union). Tuy nhiên, hiệp định này cũng chỉ giới hạn chủ
quyền của VNDCCH tại Bắc kỳ (Tonkin); phần còn lại gồm Trung kỳ (Annam) và đặc
biệt là Nam kỳ (CochinChina) thì vẫn còn danh nghĩa thuộc địa của Pháp.
Ai vi phạm Hiệp định Sơ bộ là một câu chuyện
mà cả hai phía đều cáo buộc nhau, nhưng rõ ràng đến cuối cùng, VNDCCH vẫn thừa
nhận mình chỉ có thẩm quyền khu vực phía Bắc, và từ bỏ nỗ lực đại diện cho một
Việt Nam thống nhất, ít nhất là trên phương diện công pháp quốc tế.
Trung Kỳ và Nam Kỳ, vì vậy, vẫn còn mang danh
nghĩa thuộc địa của Pháp.
Vì thế khó này, ở Nam Kỳ, con đường đấu tranh
đòi độc lập chủ yếu phải thông qua con đường chính trị và thỏa hiệp. Trong đó,
không thể xem nhẹ những nỗ lực của các gương mặt như Nguyễn Văn Xuân hay cựu
hoàng Bảo Đại.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2021/04/image-30.jpeg
Cựu hoàng Bảo Đại rời
Điện Elysee, Pháp, tháng 2/1948 sau một cuộc họp. Ảnh: Getty Images
Kết tinh của quá trình này là Hiệp định Elysee
(Elysee Accords) năm 1949. Đây là tập hợp của nhiều thư trao đổi giữa Bảo Đại và Tổng
thống Pháp Vincent Auriol.
Hiệp định thừa nhận một số điểm cơ bản
như:
(i) danh nghĩa thuộc địa của Nam Kỳ sẽ phải bị
xóa bỏ (và đã được Quốc hội Pháp trầy trật thông qua sau đó);
(ii) lần đầu tiên Pháp đồng ý thống nhất cả ba
kỳ với tên gọi chung là Việt Nam;
(iii) chấp thuận trao lại chủ quyền (như dân sự,
kinh tế, tư pháp, hành chính…) cho một chính phủ thống nhất đại diện cả ba miền.
Tuy nhiên, các vấn đề về tài chính và quân sự vẫn còn phụ thuộc vào Pháp, lý giải
bằng mối quan hệ với Liên hiệp Pháp.
Từ đó, Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam)
cũng có tính chính danh hình thức không kém cạnh so với VNDCCH, đặc biệt theo
góc nhìn công pháp quốc tế.
Cải lương và Việt
Nam Cộng hòa: “Bật tận gốc, trốc tận rễ”
Cái chết của Việt Nam Cộng hòa là hệ quả lộn xộn
của địa chính trị quốc tế khó lường trước, nhưng cái chết của cải lương là một
kết quả có thể dự báo.
Nhiều người cho rằng cải lương tự thân nó đã lỗi
thời, không còn hấp dẫn, không thể cạnh tranh thì tự nhiên phải chết.
Nhưng nếu vậy thì điều gì xảy ra trước 1975,
lúc cải lương vẫn có dư đất sống giữa thời điểm nhạc Âu – Mỹ đã rất phổ biến tại
miền Nam, và hàng loạt thể loại nhạc Việt và các tác giả Tây hóa cũng đã được
công chúng đón nhận? Nếu phải chết, tại sao cải lương không chết dần từ lúc đó?
Rạp Nguyễn Văn Hảo
giới thiệu chương trình của đoàn cải lương Thanh Minh Thanh Nga, Sài Gòn, đầu
xuân 1961. Ảnh tư liệu của Ngành Mai/ Người Việt.
Văn hóa, đến cuối cùng, tồn tại dựa vào cộng đồng
gầy dựng và nuôi dưỡng nó.
Từ công cuộc “cải cách văn hóa” nhằm “tái xây
dựng” miền Nam với việc cấm nhạc vàng, cấm tác phẩm văn chương và sách vở nổi
tiếng trong giai đoạn Việt Nam Cộng hòa, đẩy hàng triệu cư dân thành thị về các
khu kinh tế mới và trại cải tạo, rồi kế đó là cuộc trốn chạy lịch sử của hàng
trăm ngàn cư dân miền Nam Việt Nam, nền tảng văn hóa và cộng đồng văn hóa của
vùng đất khốn khổ này hoàn toàn đứt gãy.
Trong bối cảnh đó, sự thù ghét của các nhà văn
hóa cộng sản dành cho cải lương còn rõ hơn ban ngày.
Các tác giả như Trần Hữu Tá, Trà Linh, Hòa Lục
Bình khá đồng thanh trong việc phê phán và chê bai cải lương trong một loạt các
tác phẩm đả kích, mà khét tiếng nhất phải kể đến Văn hóa – Văn nghệ miền Nam
dưới chế độ Mỹ ngụy.
Từ việc gọi cải lương là công cụ để “đồi trụy
hóa” con người cho đến việc cáo buộc cải lương là chỉ dấu của một nền văn hóa
thực dân lai căng dị bản, các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa xã hội chủ nghĩa từ
lâu đã xem cải lương là tội đồ.
Một lần nữa, theo cách nói của Hoàng Như Mai,
cải lương là điển hình mô tả những gì “rẻ tiền, dơ bẩn và tội lỗi” của xã hội
tư sản mại bản, là một sản phẩm văn hóa “giả nhái”, “vô giá trị”.
Sau năm 1975, với cộng đồng thưởng thức đã tan
rã, và với những người “làm văn hóa” thù hận cải lương đến cực đỉnh, cải lương
mất đi cả nền tảng văn hóa lẫn cơ hội chính sách để sống một cách đúng nghĩa.
***
Đây có thể là một nhận định khiến người nghe cải
lương gần bốn thập niên trở lại đây phật lòng, nhưng cải lương sau 1975 không
còn chút sức sống tự thân nào.
Tinh thần không còn. Con người không còn.
Tác giả không còn. Khán giả không còn.
Với công cuộc quốc hữu hóa cải lương và các
đoàn diễn, sự áp đặt của những danh hiệu như “nghệ sĩ ưu tú”, “nghệ sĩ nhân
dân”, cùng với sự thù ghét cải lương sẵn có của các nhà hoạch định văn hóa,
hình thức kịch nghệ độc đáo một thời đã bị thao túng và trở thành công cụ để
nhà cầm quyền sử dụng, cho đến khi nào hết dùng được thì thôi.
Riêng cái hạn dùng, có lẽ đã đến từ vài thập
niên trước.
(*) Nhận định của Hoàng Như Mai được dịch lại
từ tiếng Anh sang tiếng Việt, theo trích dẫn trong nghiên cứu A Personal Sorrow:
“Cải Lương” and the Politics of North and South Vietnam của tác giả
Khai Thu Nguyen, đăng trên tạp chí Asian Theatre Journal năm 2012. Người viết
không tìm được bản gốc của tác phẩm tiếng Việt được trích dẫn.
No comments:
Post a Comment