https://www.facebook.com/xuanson.vo.5/posts/1835644396592678
Sau khi giám đốc, phó
giám đốc và kế toán trưởng của Bệnh viện Bạch Mai bị khởi tố, dư luận đặc biệt
quan tâm đến vấn đề xã hội hoá y tế. Bản thân tôi cũng đóng góp một số bài viết
về vấn đề này.
Thực ra thì tôi viết về
những tiêu cực xảy ra trong quá trình xã hội hoá y tế từ khoảng hai năm nay,
ngay sau khi thảm hoạ lọc thận Hoà Bình xảy ra. Tuy nhiên, những bài viết gần
đây, do đăng trên các báo chính thống, nên có nhiều chỗ không nói hết được, làm
một số bạn hiểu lầm, rằng tôi phản đối xã hội hoá y tế.
Xã hội hoá y tế cần được
hiểu như là quá trình để cho xã hội tham gia vào việc đầu tư và cung cấp dịch vụ
y tế. Với các nước theo thể chế TBCN, điều này hoàn toàn tự nhiên. Ở đó, người
ta không bàn đến xã hội hoá y tế, mà bàn đến việc nhà nước can thiệp vào ngành
y ở mức độ nào, nhà nước làm gì để bảo đảm an sinh xã hội về y tế… Chỉ có ở những
nước theo thể chế XHCN như Việt nam, chúng ta mới bàn đến việc tư nhân nên được
tham gia như thế nào vào y tế.
Trong các bài viết, tôi
cũng đã nhấn mạnh đến cách thức thực hiện xã hội hoá y tế của chúng ta là
nguyên nhân gây ra những tiêu cực trong các bệnh viện công hiện nay. Tất nhiên,
khi tiêu cực xảy ra ở những bệnh viện mà hệ thống phân cấp y tế xếp là tuyến đầu,
thì ảnh hưởng của nó lan ra toàn ngành y tế, cả hệ thống y tế công và y tế tư.
Tuy nhiên, tôi cho rằng,
cho đến nay, chúng ta mới đang bàn đến cái ngọn. Có nghĩa là những tiêu cực xảy
ra trong việc xã hội hoá y tế, thậm chí ngay cả việc thiết kế cách tổ chức xã hội
hoá y tế, chỉ là cái ngọn của vấn đề. Cái gốc trực tiếp của vấn đề này lại nằm
ở tư duy vơ vét của hệ thống lãnh đạo và quản lí của Việt nam.
Sở dĩ việc truy tố bộ sậu
của bệnh viện Bạch Mai được dư luận đặc biệt quan tâm, vì nó xảy ra ở lĩnh vực
rất nhạy cảm của xã hội, chứ về qui mô thì nó quá nhỏ bé so với những vụ khác.
Những vụ như xây tượng đài 1.400 tỉ đồng ở Sơn la, chiếm đất của dân ở Thủ
Thiêm, như số tiền thất thoát của Đinh La Thăng, Út trọc, Vũ nhôm… lớn hơn rất
nhiều. Những vụ như chi hàng tỉ đồng mua quà cho đại hội đảng cấp tỉnh, viết khẩu
hiệu mỗi chữ gần 1 tỉ đồng… cho thấy tư duy vơ vét của bộ máy lãnh đạo và quản
lí của chúng ta mãnh liệt như thế nào.
Là một người dân, tôi cảm
thấy, trừ một số rất ít, còn lại, hầu hết các quan chức đều có tư duy vơ vét.
Khi họ ngồi lên một vị trí nào đó, thì họ phải tìm mọi cách phát huy quyền lực
để có thể vơ vét, càng nhiều càng tốt.
Nếu họ nắm quyền lãnh đạo
và quản lí các cơ sở kinh tế, thì việc vơ vét dễ hơn, vì họ trực tiếp làm việc
với tiền. Nếu lãnh đạo và quản lí giao thông, thì họ nghĩ ra các kiểu BOT, thu
phí, thu giá… Nếu họ lãnh đạo và quản lí người dân, các doanh nghiệp… thì có
khó hơn bọn kia đôi chút, nhưng vẫn dễ, đó là gây khó, bắt chẹt dân.
Nếu họ làm trong các cơ cấu
quyền lực không trực tiếp quản lí tiền, không có cơ hội bóp nặn người dân, thì
họ nghĩ ra các dự án, kiểu như tượng đài, khẩu hiệu, đại hội, hội nghị… để xà xẻo.
Ở những vùng sâu, vùng xa, khả năng kinh tế của người dân kém, không có các
doanh nghiệp để bóp nặn, thì họ ăn tiền cứu trợ, dẫn đến những chuyện kiểu như
bò đi lạc vào nhà cán bộ xã, huyện.
Trong khi đó, y tế và giáo dục là hai lĩnh vực vừa nghèo lại vừa nhạy cảm. Tư duy vơ vét ở đây khó thực hiện hơn so với
các ngành trên. Họ khó có cái gì để vơ vét, mà chỉ có thể bóp nặn nhân viên. Mà
nhân viên thì đa phần là nghèo, rồi lại bị ràng buộc bởi tình thầy trò, đồng
nghiệp. Những ý định bóp nặn học sinh và bệnh nhân đều bị giới hạn bởi vấn đề đạo
đức.
Trong khi đấy thì ở những
ngành khác, các cán bộ lãnh đạo, quản lí “ăn” đủ thứ, sống một cách đế vương, uống
rượu hàng trăm triệu một chai, nhà thì hết biệt phủ nọ đến dinh thự kia. Tất
nhiên, họ phải tìm cách cho “bằng chị bằng em”. Khi nhà nước bắt đầu có những
khoản đầu tư lớn cho y tế, giáo dục, thì cơ hội xà xẻo tăng lên. Và họ bắt đầu
có điều kiện để vơ vét nhiều hơn, lớn hơn.
Với giáo dục, trong khi
nhiều thầy cô vì miếng cơm manh áo, muối mặt bắt ép học sinh để dạy thêm, kiếm
từng đồng bạc lẻ, thì những người có quyền chia nhau viết, in, bán sách giáo
khoa, kiếm lợi tiền tỉ. Họ nghĩ ra các chiêu trò để học sinh phải mua nhiều
sách, với giá ngày càng cao, không sử dụng được sách cũ… Hết cải cách, thay đổi,
lại đến làm bài tập ngay vào sách.
Còn y tế, thì chủ trương
xã hội hoá y tế như một cơn mưa rào xuống vùng đất đang khát nước. Về mức độ
tàn nhẫn, thì việc nâng giá thiết bị, bắt người bệnh chi trả nhiều hơn hàng chục
triệu đồng mỗi ca bệnh, ghê gớm hơn nhiều so với việc một bác sĩ vòi vĩnh phong
bì, hay câu kết với trình dược viên kê thực phẩm chức năng. Về lợi lộc, việc kê
khống giá trang thiết bị cũng mang lại mối lợi nhanh hơn, và nhiều hơn.
Tuy nhiên, xã hội hoá y tế
chỉ là một điều kiện để các nhà lãnh đạo và quản lí y tế thực hiện việc vơ vét
của mình. Nếu không có xã hội hoá y tế, thì họ cũng phải nghĩ ra cách này cách
khác để vơ vét, vì tư duy
vơ vét đã trở thành tư duy chủ đạo của những kẻ nắm quyền lãnh đạo và quản lí ở
đất nước này.
Không có lí gì khi lãnh đạo
và quản lí của ngành nào cũng có thể vơ vét, mà họ lại không thể. Cho nên, cái
gốc của các tiêu cực trong ngành y, trong đó có cả các tiêu cực xung quanh vấn
đề xã hội hoá y tế, là tư duy vơ vét, là sự xuống cấp về đạo đức của các lãnh đạo,
quản lí.
Còn cái gốc của cái tư duy vơ vét, của sự xuống cấp
về đạo đức của bọn người này là gì, thì chắc những ai có chút tư duy biện chứng
sẽ biết từ đâu.
No comments:
Post a Comment