Saturday, 17 October 2020

HIẾN PHÁP VIỆT NAM : THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN và GIẢI PHÁP (Đỗ Kim Thêm)

 


Hiến pháp Việt Nam: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp

Đỗ Kim Thêm

17/10/2020

https://baotiengdan.com/2020/10/17/hien-phap-viet-nam-thuc-trang-nguyen-nhan-va-giai-phap/

 

Vấn đề căn bản nhất mà Đảng Cộng Sản Việt Nam phải đối phó trong Đại hội Đảng XIII là lòng bất mãn cao độ của toàn dân với các chủ trương hiện nay của Đảng, mà điểm chủ yếu là dân chúng không tin tưởng về hệ thống chính quyền và uy lực pháp quyền. Việt Nam không thiếu luật pháp, nếu chính quyền không áp dụng nghiêm minh sẽ là một thách thức quan trọng mà giới lãnh đạo mới của Đảng phải đối đầu khi nó được thành lập vào năm 2021.

 

Thực vậy, ổn định chính trị của Việt Nam tùy thuộc vào khả năng phát triển thể chế pháp quyền trong hệ thống hiện nay, mà cơ bản nhất là tu chỉnh Luật Hiến Pháp cho một bối cảnh mới. Do đó, Đại hội không phải là cơ hội tốt đẹp cho giới lãnh đạo lo chúc tụng nhau, chia ghế, giành quyền và tẩu tán tài sản ra ngoại quốc.

 

Nhưng Hiến pháp là gì? Hiến pháp là một văn bản có uy lực tối thượng trong hệ thống chính quyền và luật pháp để quy định về nguyên tắc tổ chức nhà nước. Hiến pháp tạo ra thẩm quyền hiến định cho các cơ quan và quy định mọi luật thủ tục cho các cơ quan công quyền thực hiện quyền này. Hiến pháp quy định các văn bản lập pháp và lập quy để cho các cơ quan và toàn dân phải tôn trọng. Hiến pháp biểu hiện trình độ văn hoá chung, chứng tỏ tinh hoa dân tộc đáng cho thế hệ hôm nay tự hào về đất nước và cho thế hệ mai sau kế thừa.

 

Điểm quan trọng nhất là ai làm ra Hiền pháp? Toàn dân đảm nhiệm quyền này. Toàn dân có thẩm quyền lập hiến tối thượng và phải có cơ hội hành xử, không ai khác hơn. Đó là quan niệm chung về giá trị phổ quát của Luật Hiến pháp trong các nước trên thế giới.

Nhưng tại Việt Nam lại khác hẳn. Hiến pháp là một bản sao Nghị quyết của Đảng, không mang lại một giá trị luật học và cũng không đáng là khuôn mẫu cho ai noi theo. Các khuyết điểm của Hiến pháp Việt Nam là một bất hạnh và ô nhục cho dân tộc. Vấn đề như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, khái niệm về đất đai và quyền tư hữu v.v đã được thảo luận nhiều, bài viết này sẽ không bàn thêm các chi tiết quen thuộc này, mà chỉ nhìn lại vấn đề trong khuôn khổ lý thuyết của Luật Hiến pháp trong các nước khác với mục đích thảo luận về thực trạng, nguyên nhân và giải pháp.

 

Thực trạng

 

Không tự do

Việt Nam hiện nay đang có tự do kinh tế và không có tự do chính trị, một loại tự do không luật lệ. Đúng hơn, Việt Nam có đủ luật lệ, nhưng không áp dụng theo tinh thần của nhà nước pháp quyền như luật hiến pháp đề cao, mà vi phạm nhân quyền và dân quyền là vấn đề chính. Thí dụ điển hình là bi kịch Đồng Tâm.

 

Bản chất của vụ tranh chấp Đồng Tâm là đất đai, nghĩa là dân sự. Vụ kiện theo cơ sở dân quyền chưa có án toà chung quyết, nhưng được 3.000 cảnh sát cơ động thi hành chấp pháp lúc đêm khuya và giết người công khai. Đảng phải dùng bạo lực cách mạng và vũ khí hiện đại để chiếm hữu đất đai, mà đúng lý ra là có thể giải quyết tranh tụng trong tinh thần tôn trọng quyền tư hữu của người dân. Khi hai phe tranh tụng bảo vệ quyền này trong tinh thần thượng tôn luật pháp, nó sẽ không tốn xương máu của nạn nhân hay cán bộ chấp pháp và chửa cháy. Trong thời đại văn minh, bi kịch Đồng Tâm là một vết nhơ của lịch sử pháp luật Việt Nam.

 

Sai phạm trầm trọng là Hiến pháp không phân biệt dân quyền và nhân quyền, hai phạm trù cần áp dụng riêng biệt.

 

Hiến pháp công nhận nhân quyền, thực ra không nằm trong ý nghĩa cao cả cuả nhân quyền, một quyền tự nhiên nội tại, thành tựu văn minh của nhân loại và có giá trị phổ quát, nhưng như là một ban phát ân huệ của nhà nước.

 

Bằng chứng gần đây là quyền tự do ngôn luận của Cô Phạm Đoan Trang. Là một nhà hoạt động công khai và là tác giả của nhiều đầu sách như “Chính trị bình dân”, “Phản kháng phi bạo lực”, “Cẩm nang nuôi tù” và mới nhất là đồng tác giả với ông Will Nguyễn về “Báo cáo Đồng Tâm”, cô Trang là người được nhiều giải thưởng quốc tế có liên quan đến các hoạt động báo chí và nhân quyền. Các hoạt động của cô Trang là trong tinh thần bất bạo động. Tuy vậy, theo quan điểm của chính quyền, cô Trang có những hành vi “Tuyên truyền chống Nhà nước”. Đó là lý do khiến cô Trang bị khởi tố và bắt giữ. Việc truy tố mang những sai phạm luật pháp.

 

Về mặt hình thức, cô Trang là cư dân hiện sinh sống tại TP.HCM. Hành vi của cô Trang đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng tại TP.HCM. Do đó, căn cứ khoản 4 điều 163 Bộ Luật Tố tụng hình sự thì thẩm quyền điều tra vụ án phải thuộc về cơ quan điều tra tại TP.HCM, không phải là Hà Nội.

 

Về mặt nội dung, vấn đề trầm trọng hơn. Khi phát biểu về một quan điểm chính trị, trình bày công khai một hy vọng thay đổi cho đất nước trong tương lai qua sách vở và báo chí, cô Trang hoạt động trong khuôn khổ quyền tự do ngôn luận hiến định.

 

Vấn đề là toà án cần phân biệt những khái niệm cơ bản như “Tuyên truyền chống Nhà nước” và tôn trọng đối lập. Vũ khí hiện nay của chính quyền là thuyết phục và chứng minh việc bắt giử và xét xử theo các khái niệm này.

 

Nhìn chung, việc bắt giử cô Trang không có cơ sở pháp lý. Cô Trang cũng không có một tố quyền hiến định để chống đối việc bắt giữ.

Thực tế cho thấy là khi Hiến pháp công nhận tổng quát giá trị nhân quyền, nhưng không tạo căn bản để tuân thủ, không có một cơ chế tranh tụng khi vi phạm, không công nhận tố quyền trực tiếp của nạn nhân để khởi động và không có cơ quan theo dõi các vi phạm để cảnh báo khi cần thiết.

 

Không ràng buộc luật pháp

Dù Hiến pháp quy định là mọi hoạt động của Đảng phải nằm trong khuổn khổ cuả Hiến pháp và luật pháp, nhưng không đem lại ràng buộc pháp luật trong thực tế, một điều kiện tạo hiệu lực cho luật hiến pháp.

 

Vì không có luật pháp làm cơ sở nên Đảng có quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối nhưng không chịu trách nhiệm pháp luật:

 

Tất cả các Cương lĩnh và Nghị quyết của Đảng đứng ngoài và đứng trên luật pháp, mọi sinh hoạt nội bộ của Đảng không theo nguyên tắc dân chủ và mọi kỷ luật Đảng dựa trên đạo đức cách mạng và lương tâm tập thể.

 

Hiển nhiên đây là sự vi phạm nguyên tắc ràng buộc. Tạo ra một khuôn khổ pháp chế cho Đảng hoạt động và đề ra mối quan hệ giữa Đảng trong vai trò lãnh đạo và chức năng điều hành Nhà nước là một nhu cầu khách quan thời đại, nhưng không cơ quan nào đảm trách thực hiện.

 

Không bình đẳng

Vi phạm trầm trọng về nguyên tắc bình đẳng xảy ra trong trường hợp áp dụng hoặc không áp dụng luật kinh tế.

 

Trường hợp thứ nhất là không áp dụng luật doanh nghiệp nhà nước đang bị phá sản mà không giải thể là thí dụ. Đây là một nghịch lý trong luật cạnh tranh, vì doanh nghiệp tiếp tục hoạt động thì chỉ duy trì khủng hoảng và kiềm hãm tăng trưởng. Chính sách này thuộc về Đảng quyền, một lĩnh vực nằm ngoài và trên sự tài phán của nhà nước.

 

Hậu quả là người vi phạm pháp luật mà cả nước không dám minh danh để truy tố theo luật định mả chỉ gọi là Đồng chí X, một thắng lợi cho Đảng quyền nhằm bảo vệ người vi phạm, tư bản thân tộc và các nhóm lợi ích.

 

Trường hợp thứ hai là áp dụng luật cho dành cho công nhân và nông dân thì lại làm bất công trầm trọng hơn. Nông dân là thành phần chủ yếu đóng góp cho việc tăng trưởng kinh tế mà không được hưởng thành quả tương xứng.

 

Trở ngại chính là đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân mà do nhà nước đại diện chủ sở hữu, một khái niệm ngược với tinh thần tôn trọng quyền tư hữu. Chính sách công nghiệp hoá, thành thị hoá và an ninh quốc phỏng không nhằm bảo vệ tư lợi của nông dân. Các luật lệ chống lạm phát và an ninh lương thực làm nông dân không bán được nông phẩm theo đúng giá cạnh tranh và các biện pháp thu mua chỉ phục vụ cho quyền lợi công ty nhà nước.

 

Việc thực tế nhất để đem lại công bình cho công nhân là tăng lương tối thiểu và cải thiện các biện pháp an sinh xã hội. Vì môi trường đầu tư đang bớt thu hút mà luật pháp dành nhiều ưu đãi cho nhà đầu tư ngoại quốc và quyền lợi công nhân bị thua thiệt. Bất công sẽ kéo dài khi luật lao động không là một giải pháp thích hợp.

 

Cả hai trường hợp trên là bằng chứng cho thấy sự vi phạm nguyên tắc công bình xã hội là trầm trọng và còn kéo dài.

 

Vì không tuân thủ các nguyên tắc tự do, công bình và ràng buộc theo chuẩn mực nên Hiến pháp Việt Nam không có giá trị về mặt pháp lý, do đó, cũng có nghĩa là không có Hiến pháp về mặt thực tế.

Nguyên nhân

Có nhiều lý giải về thực trạng vô luật pháp mà độc tôn Đảng quyền, vi phạm thẩm quyền lập hiến của toàn dân và thiếu kỹ năng lập pháp và lập quy của Quốc hội là nguyên nhân chính.

 

Độc tôn Đảng quyền

Hiến pháp thể hiện quyền quyết định của người dân về ý chí chung sống với chính quyền và có mục tiêu là phụng sự hoà bình.

 

Thực tế cho thấy tất cả các Hiến pháp Việt Nam chỉ thể hiện ý muốn chính trị của Đảng, sao chép lại những đường lối đấu tranh cho từng giai đoạn lịch sử để dân chúng tuân thủ hơn là đề ra một khuôn mẩu quy phạm chung cho xã hội.

 

Điển hình là Điều 4 Hiến pháp 2013 có quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, điều kiện để có hiệu lực hợp hiến và hợp pháp là mọi hoạt động của Đảng phải nằm trong khuổn khổ của Hiến pháp và luật pháp. Vì không có luật qui định, nên Đảng không bị ràng buộc và chịu trách nhiệm pháp luậtNghị Quyết của Bộ Chính trị về Các Đặc khu mà ông Đinh Thế Huynh đã ký Kết luận số 21-TB-TW ngày 22 tháng Ba năm 2017 là thí dụ điển hình.

 

Bộ Chính trị “Đồng ý cho thành lập ba đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh) Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hoà) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) trực thuộc cấp tỉnh” là nằm trong trường hợp mà Bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã viện dẫn. Đặc biệt nhất là Bộ Chính trị còn “giao cho Đảng đoàn Quốc hội xem xét thông qua“.

 

Hiến pháp 2013 không có một điều khoản nào quy định về thẩm quyền hiến định của Bộ Chính trị. Cho đến nay, các đạo luật do Quốc hội ban hành cũng không đề cập đến quyền của Bộ Chính trị. Do đó, Bộ Chính trị không có quyền về quy hoạch lãnh thổ.

 

Thực ra, đây không phải là lần đầu tiên có vấn đề về quy hoạch lãnh thổ, các dự án Bauxite tại Tây Nguyên, khu kinh tế gang thép Vũng Áng, dự án Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội và Chân Mây với các hậu quả tương tự đã có trước đây.

 

Nhìn lại lịch sử, chúng ta cũng đã thấy việc phát động các cuộc đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ là kết quả của các Nghị quyết của Đảng và không có phúc quyết của người dân theo thủ tục hiến định.

 

Người dân hoàn toàn không có cơ hội bày tỏ chính kiến trong các Tuyên ngôn Độc Lập, Hiệp định Genève và Paris như Hội nghị Diên Hồng, một trường hợp duy nhất trong lịch sử Việt.

 

Đề ra vai trò lãnh đạo Nhà nước của Đảng trong một khuôn khổ pháp chế là một nhu cầu khách quan thời đại mà Quốc hội cần ban hành để toàn dân biết giới hạn pháp luật của Đảng.

 

Nhưng độc tôn Đảng quyền là chuyện mọi người phải đương nhiên chấp nhận và cho Đảng là một đặc thù của Việt Nam do lịch sử đấu tranh của Đảng để lại. Thực tế sinh động hiện nay cho thấy là Đảng đã chấm dứt nhiệm vụ lịch sử này từ lâu.

 

Vi phạm thẩm quyền lập hiến

Một mặt, Hiến pháp xác định thẩm quyền lập hiến là chủ quyền của nhân dân, mặt khác, lại đề cao vai trò tối thượng của Quốc hội. Vì không phân định rõ phạm vi nên đây là một nghịch lý.

 

Tất cả quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân và Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nhưng người dân không thể thực hiện quyền này trong thực tế, vì dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp và chỉ có Quốc hội mới quyền sửa đổi Hiến pháp.

 

Hiến pháp đề cao chủ quyền cuả nhân dân, nhưng không minh thị thẩm quyền phúc quyết hiến pháp, một sự thiếu nhất quán trong quy định quyền lực của nhân dân. Hiến pháp mặc nhiên không phát huy đúng mức quyền làm chủ của nhân dân vì cho phép Quốc hội không thực hiện trưng cầu dân ý, một lỗi hệ thống.

 

Thiếu kỹ năng lập pháp và lập quy

Sự hỗn loạn của việc áp dụng luật pháp còn đến từ kỹ năng lập pháp và lập quy. Trên lý thuyết, nguyên tắc quyền lực nhà nước phải được thống nhất và do phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước.

 

Trong thực tế, mức vi phạm của các văn bản quy phạm luật pháp đến mức độ báo động vì các cơ quan ban hành không có kỹ năng và cơ quan kiểm tra cũng không thể hoàn thành chức năng.

 

Nguyên tắc phân công nội bộ của Đảng là quan trọng nhất phải tuân thủ nên kiểm soát thẩm quyền lập hiến, lập pháp và lập quy không được đặt ra đúng mức. Nhiều Nghị Định quy định các quyền tự do hiến định của người dân mà không dựa vào Hiến pháp, chỉ căn cứ vào Luật Tổ chức Chính phủ để ban hành, một vi phạm trầm trọng về luật thủ tục.

 

Việt Nam chưa có Toà Bảo Hiến để xét vấn đề vi hiến hay vi luật của các quyết định hành chính trong khi Toà án Hành chính hay Toà án Nhân dân lại không có thẩm quyền. Quyền giải thích luật pháp thuộc về Uỷ ban Thường Vụ Quốc hội, một cơ chế kiểm tra nhưng không bảo đảm tính thống nhất cuả hệ thống luật pháp và một số Đại Biểu phải dồn sức trao dồi kỹ năng viết, đọc và chất vấn.

 

Tại Việt Nam, mối quan hệ trực tiếp giữa cương lĩnh chính trị và soạn thảo hiến pháp là thí dụ. Hiến pháp không do dân phúc quyết nên không thể hiện thẩm quyền lập hiến và chính quyền cưỡng chế luật hiến pháp không thể hiện tinh thần trọng pháp.

 

Tóm lại, do những nguyên nhân này mà tìm giải pháp cho việc sửa đổi Hiến pháp là vấn đề, nhưng cụ thể nhất là phân biệt mục tiêu chính trị và trách nhiệm luật pháp của Đảng, trả lại thẩm quyền tối thượng lập hiến cho toàn dân, nâng cao kỹ năng lập pháp của quốc hội và thực thi tinh thần trọng pháp của chính quyền.

 

Giải pháp

 

Các giải pháp hiện nay

Giải pháp thứ nhất cho là tu chỉnh Hiến pháp phải phù hợp với nhu cầu tự hoàn thiện của cơ chế. Do đó, cần duy trì Đảng quyền để cho mọi sinh hoạt chính trị sẽ tuần tự chuyển hoá trong an hoà và việc thay đổi triệt để bằng cách soạn thảo Hiến pháp mới là không cần thiết.

 

Điều kiện cần có là nâng cao ý thức về trọng pháp qua giáo dục và khái niệm về Nhà nước pháp quyền XHCH cần được triển khai sâu rộng hơn. Những người tin rằng Đảng sẽ đem lại giải pháp cho vấn đề Hiến pháp nên họ ủng hộ và góp ý trong khuôn khổ mà Đảng đề xuất. Thành tựu tiệm tiến là một triển vọng khả thi.

 

Giải pháp thứ hai chủ trương đột phá hơn. Tu chỉnh không thể cải thiện các lỗi hệ thống vì không có tác dụng triệt để và lâu dài mà du nhập những mô hình ngoại lai để thay thế là giải pháp. Nguyên tắc tam quyền phân lập, xác định vai trò Đảng quyền trong hệ thống chính trị đa nguyên và đa đảng và phát huy tinh thần thượng tôn luật pháp là những biện pháp cụ thể.

 

Các nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước và hải ngoại cổ vũ cho giải pháp này. Họ tin rằng Đảng là vấn đề mà mô hình Hiến pháp các nước phương Tây là giải pháp, nhưng họ không đủ khả năng huy động sự đồng thuận của Đảng để cùng thực hiện giải pháp này.

Dù tiệm tiến hay đột phá, tu chỉnh hay soạn mới, cả hai giải pháp đều tùy thuộc vào thiện chí của ba tác nhân chủ yếu là chính quyền, dân chúng và học giới, mà hiện nay thì không ai tạo được niềm tin cho triển vọng cải cách: thực tâm sửa đổi của Đảng, tích cực tham gia của toàn dân và đóng góp hiệu năng của luật giới là vấn đề.

 

Khi dân góp ý để sửa đổi Hiến pháp trong khuôn khổ của Đảng, thì những ý kiến táo bạo trong vấn đề Đảng quyền lại không được Đảng phản biện lập luận dựa trên khái niệm pháp luật mà xử lý dựa theo quyền lực chuyên chính và suy thoái đạo đức. Lập luận này không thuyết phục khi tranh luận về luật pháp, vì hai phạm trù này khác nhau cần phân biệt.

 

Khi dân thỉnh nguyện ngoài hệ thống, thiểu số này thể hiện tinh thần can đảm đáng khâm phục, nhưng lại bị phê bình là thế lực phản động, không phản ánh nguyện vọng của tuyệt đại đa số dân chúng và không thể xác minh được là ai có thẩm quyền đại diện, vì không ai có thống kê chính xác.

 

Chứng minh khoa học về nhu cầu thay đối Hiến pháp là nhiệm vụ của học giới, nhưng lại là vấn đề nhạy cảm chính trị và họ không được phép tiến hành. Dù thành tâm đóng góp của học giới là có thực, nhưng hiệu năng bị nghi ngờ. Vì Đảng không đào tạo được những nhà luật học tầm vóc quốc gia và quốc tế, nên thoả mãn nhu cầu này hiện nay là điều mơ ước.

 

Giải pháp của Immanuel Kant

Kant không có lập luận ủng hộ cho độc quyền Đảng trị và nghiêm khắc khi cho là Hiến pháp phải theo thể chế cộng hoà, không thể khác hơn.

 

Suy luận theo quan điểm chặt chẽ này thì Việt Nam trong suốt thời chiến cũng như bình đã không có Hiến pháp mà chỉ có Đảng quyền cai trị.

 

Hiến pháp không có giá trị khi có Đảng đứng trên Hiến phápKhi Hiến pháp không có giá trị pháp lý thì cũng đồng nghĩa là không có Hiến pháp trong thực tếViệc sửa đổi Hiến pháp trong khuôn khổ Đảng soi sáng là tiếp tục duy trì tình trạng vô luật pháp.

 

Do đó, một Hiến pháp mới theo thể chế cộng hoà cho Việt Nam sẽ phù hợp với suy luận của Kant. Triển vọng này sẽ không mở ra vì Đảng sẽ chống đối.

 

Một là, truyền thống đấu tranh Cách mạng, liên tục của lịch sử và thành tích Đổi Mới là hoàn cảnh của Việt Nam.

 

Hai là, mô hình Hiến pháp theo các nước phương Tây sẽ không bảo đảm được sự vận hành. Đề cao giá trị văn hoá Á Đông trong sinh hoạt chính trị là một đề tài gây nhiều tranh luận và không đem lại một giải pháp, nhưng lập luận chính cho rằng trình độ dân trí là không phù hợp. Đảng sẽ không mở lối cho một lộ trình khả thi.

 

Chúng ta đang ở đâu?

Suốt một quá trình dài, chúng ta chưa có luật Hiến pháp đúng nghĩa, người dân không còn được lên tiếng để quyết định vận mệnh đất nước. Hiện nay, chúng ta đang muốn thoát khỏi tình trạng tự do vô luật lệ và tự đặt mình trong khuôn khổ của luật Hiến pháp để giải quyết các vấn đề chung sống.

 

Chúng ta hoàn toàn không có một khế ước nguyên thủy theo ý nghĩa cao đẹp nhất của một contrarius originarius trong lý thuyết luật học, một vấn đề nền tảng cho Hiến pháp. Khi khế ước nguyên thuỷ là một vấn đề ưu tiên, thì các nguyên tắc hiến định trở thành vấn đề kỹ thuật có thể sẽ được giải quyết sau.

 

Hiện nay, khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCH không còn sức thuyết phục, khái niệm về chuyên chính vô sản đã hết hào quang, khái niệm thế lực phản động cũng không phù hợp trào lưu dân chủ hoá, những khái niệm về đối lập, quyền tư hữu và tự do báo chí cũng không được chấp nhận.

 

Tất cả các khó khăn về khái niệm sẽ được làm lại trên một căn bản mới khi một khế ước nguyên thủy hình thành. Đó là điểm mà ý dân và ý Đảng còn có thể gặp nhau trong một giới hạn nhất định. Khi học giới biết được căn bản này thì họ sẽ đóng góp hữu hiệu hơn để giải quyết vần đề khái niệm hiến định.

 

Ý Đảng? Không một Đảng cầm quyền nào, kể cả tại các nước dân chủ, lại muốn tự bỏ điạ vị cai trị. Ở Việt Nam có khác hơn, vì theo quan điểm lịch sử mà Đảng muốn cầm quyền toàn diện triệt để và muôn đời, trong khi Kant cho là một chế độ chính trị chỉ đem lại một giải pháp tạm thời cho các vấn đề xã hội. Khi uy lực của luật pháp lan toả trong xã hội và ý thức trọng pháp của dân chúng lên cao, đó là cơ sở để làm ổn định cho việc phát triển chính trị dân chủ.

 

Ý dân? Không ai có khả năng để trả lời câu hỏi này thoả đáng. Đảng tự hào thu phục nhân tâm khi dựa vào thành tích đấu tranh giải phóng và Đổi Mới, nhưng hiện nay Đảng không chứng minh được về niềm tin của dân vào sự lãnh đạo của Đảng với phương pháp thăm dò dư luận như các nước phương Tây.

 

Người bất đồng chính kiến thấy mình là thiểu số, bi quan này thiếu cơ sở, khi ý thức về bất công xã hội càng ngày càng nhiều, mà chính họ không thể xác định được mức độ. Hy vọng các nước dân chủ phương Tây hổ trợ trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền hiện nay không còn nhiều như trước, vì biến chuyển quốc tế đang dồn dập và không thuận lợi.

 

Đã đến lúc ý kiến của toàn dân trước vấn đề hệ trọng của đất nước cần được tìm hiểu, luận chứng và trình bày công khai với các phương pháp khoa học khả tín, một chuyện dễ làm, xảy ra hàng tuần và hằng tháng tại các nước phương Tây, nhưng chưa hề có tại Việt Nam.

 

Tuân theo sự chỉ đạo của Đảng nên đã có một số góp ý sửa đổi Hiến pháp trong sự dè dặt thường lệ, trong khi đó đã có một số khác đang kiến nghị ngoài sự chỉ đạo của Đảng với tất cả thiện chí.

 

Cả hai đóng góp này rất đáng được trân trọng và gây được ít nhiều tiếng vang. Hiển nhiên, cả hai luồng ý kiến này cũng không phải là của tất cả 95 triệu dân Việt. Nhưng cả hai loại góp ý này tiếp tục chấp nhận duy trì nguyên trạng vô luật pháp và không là khởi điểm cho tiến trình cải cách.

 

Chúng ta phải làm gì?

Nếu chúng ta nghiêm khắc với chính mình  phải nhận ra rằng đã đến lúc đất nước cần có một khế ước nguyên thủy làm nền tảng cho sự chung sống, một nguyên ủy cho mọi chuyển động tương lai của xã hội.

 

Triển vọng duy nhất mở ra cho Việt Nam hôm nay phải là một cuộc trưng cầu dân ý theo phương cách khách quan để xác định lòng dân. Chúng ta muốn đặt mình trong khuôn khổ mới của luật pháp, một tiền đề cho mô hình tương lai của Hiến pháp, kết quả này phải tùy thuộc vào trưng cầu dân ý. Ở đây không có thể bàn sâu chi tiết về mô hình cụ thể mà chỉ đề cập về điều kiện khả thi cần có, đó là thiện chí của Đảng và hợp tác của dân chúng.

 

Thiện chí của Đảng được suy đoán nhiều, nhưng không ai có thể biết chính xác các tác động đang chuyển biến. Thời thế đổi thay, nên Đảng cũng phải thông minh hơn trước đây để hiểu ra là vũ khí của Đảng hôm nay không còn là bạo lực mà là lập luận của lý trí dựa trên khái niệm pháp luật để thuyết phục, một hình thức tự khai sáng và vận dụng mà Kant đề cao.

 

Đảng phải tự diễn biến hoà bình trong bối cảnh mới, tạo thu hút hơn bằng cách chấp nhận dân chủ là một trò chơi mới và đồng ý với kết quả luật chơi khi tham dự. Đảng cần lập luận và thuyết phục dân chúng trên cơ sở hợp tác và đối thoại.

 

Người đầy tớ của nhân dân, đại biểu trung thành của giai cấp, thành tích trong chiến tranh và Đổi Mới không là khái niệm pháp luật đem đến sự đồng thuận về hình thức cai trị, nên không tạo ra chính danh cho một nhà nước pháp quyền.

 

Quan trọng hơn, khả năng trong quá khứ không bảo chứng cho Đảng có thể lãnh đạo hữu hiệu hơn cho tương lai của đất nước.

 

Đảng và dân chúng, ai là vấn đề và ai là giải pháp, rồi ai sẽ thắng ai trong các lập luận này, không ai biết được, nhưng như Kant đề xuất, lý trí là mệnh lệnh để cả hai cùng tuân thủ.

 

Nếu dân chúng là vấn đề mà Đảng đem lại giải pháp, thì Đảng sẽ làm cho chính danh thêm ngời sáng. Nhưng thiện chí của Đảng đang bị nghi ngờ vì góp ý là một trò chơi nguy hiểm cho người tham dự.

 

Lý do dể hiểu là Đảng không áp dụng tiêu chuẩn khách quan để phân biệt giữa thiện chí đóng góp và thành phần phản động có ác ý nói xấu chế độ. Tiếp tục sử dụng bạo lực để trấn áp người bất đồng chính kiến thì Đảng sẽ làm tình hình tệ hại hơn mà Liên Xô, Đông Âu và khối Á Rập là bài học.

 

Hợp tác của dân chúng đòi hỏi ý thức về giá trị sử dụng thẩm quyền lập hiến. Dân chúng phải kể đến đầu tiên ở đây là cộng đồng do mạng lưới thông tin hiện đại nối kết, tuy là thiểu số trong thế giới ảo nhưng họ là tác nhân quan trọng làm gia tăng kiến thức và tạo nên một hệ thống thông tin trung thực và nhanh chóng hơn cho xã hội đang bị bưng bít sự thật mà đa số thầm lặng và mất niềm tin đang cần đến.

 

Đa số thờ ơ có lý do chính đáng: cơm áo là thực tế quan trọng nhất; quyền lực, thân tộc và tiền là phương tiện tốt nhất để giải quyết tranh chấp; nếu tin tức và luật pháp không cần thiết thì việc sử dụng thẩm quyền lập hiến không thể đặt ra.

 

Cảm nhận giá trị này đến từ một nền hệ thống thông tin tự do và giáo dục trọng pháp, nó sẽ mang lại kiến thức và trở thành ý thức. Ý thức giúp nâng cao khả năng phán đoán về thẩm quyền lập hiến.

 

Bất hạnh cho chúng ta là giáo dục ngày càng lạc lối và tác động tích cực thông tin cho mọi sự chuyển hoá xã hội khó kiểm chứng, tình huống này không cho phép lạc quan về triển vọng hợp tác của dân chúng.

 

Ngược lại, một thực tế khác đang xảy ra khắp mọi nơi trên đất nước: các cuộc biểu tình của dân oan đòi công lý, bảo vệ lãnh thổ, đòi làm sáng tỏ những cái chết do bạo lực công quyền trở thành bức thiết hơn bao giờ hết.

 

Như vậy, ý thức về luật pháp đến từ bức xúc trước các bất công trước mắt này. Đó là những tín hiệu khởi đầu cho một sự bất ổn thường trực mà bạo lực chính quyền làm cho động loạn trầm trọng hơn. Phản ứng trước bất công là cần nhưng chưa đủ để chuyển biến thành ý thức của toàn xã hội về vai trò luật hiến pháp và thẩm quyền lập hiến.

 

Ước vọng của đa số thầm lặng về một cuộc Đối Mới khác toàn diện và triệt để hơn đang dâng cao, nhưng cũng khó xác định chiều hướng và tốc độ.

 

Huy động toàn dân tham gia vào cuộc trưng cầu dân ý càng khó khăn hơn vì cần quá nhiều yếu tố khác. Những chuyển biến gần đây cho thấy ý thức về vai trò luật Hiến pháp thay đổi nhiều so với trước đây, mà kết quả góp ý và thỉnh nguyện là thí dụ.

 

Dĩ nhiên, khi dân chúng ý thức rằng Đảng là vấn đề mà dân chúng là giải pháp thì trưng cầu dân ý là một cơ hội lịch sử để toàn dân tham gia đem lại giải pháp này. Trong chiều hướng này, chúng ta được phép hy vọng là mức độ tham gia sẽ cao hơn bao giờ hết.

 

Kết luận

 

Việt Nam không còn năng động cải cách, vì chính quyền và đa số dân chúng thờ ơ trước các biến chuyển sôi động của thời cuộc: nền dân chủ của Hoa Kỳ đang lâm nguy, nền kinh tế của Trung Quốc bị suy vi và cảnh quan địa chính trị thế giới bị tê liệt. Vì Việt Nam lãng phí nhiều thời gian và năng lực nên mọi nổ lực bị trì trệ và đã đến lúc nên cảnh tỉnh là cải cách toàn diện cho hệ thồng và con người Việt Nam càng bức thiết hơn bao giờ hết.

 

Ngày nay, Việt Nam không còn dựa trên căn bản hợp đồng giữa lòng người dân và ý chí cai trị của chính quyền. Do đó, đất nước không thể toả sáng và đem đến ổn định trong hiện tại và tương lai

 

Sau Đại Hội Đảng lần thứ XIII, đất nước  bước vào thời kỳ mới, một cuộc trưng cầu dân ý tìm ra sự đống thuận theo ý nghĩa khế uớc nguyên thủy cần được lập ra. Sư đồng thuận về hình thức cai trị phải dựa trên các khái niệm pháp luật, một cơ sở lập luận cần có của người dân và chính quyền và cả hai cùng tuân thủ.

 

Đề xuất trưng cầu dân ý không hoàn toàn mới lạ, mà thực ra đã có nhiều kêu gọi của các nhà đấu tranh cho dân chủ. Họ chứng minh là dân Việt chưa bao giờ hành sử thẩm quyền lập hiến, Đảng tước đoạt quyền dân tộc tự quyết và kêu gọi Đảng thức tỉnh về lý trí và đạo đức.

 

Ở đây đề xuất dễ bị phê phán là hoang tưởng, một là lý thuyết Luật Hiến Pháp hình thành trong một điều kiện lịch sử và xã hội khác biệt, hai là Đảng muốn tiếp tục nắm quyền mà không cần lý thuyết của ai và không muốn có sự đồng thuận của dân.

 

Nhưng nếu chúng ta chấp nhận giá trị phổ quát của các nước trên thế giới, thì đề xuất này thực tế hơn bao giờ hết, một phương cách hành động với tính thời sự và cẩm nang. Nhận chân các giá trị này và nổ lực đòi lại thẩm quyền đã mất để thực thi là vấn đề chọn lưạ hành động của toàn dân.

 

Cuối cùng, Việt Nam đang thiếu một bối cảnh và ý chí chánh trị thích hợp cho việc cải cách luật pháp theo mô hình các nước phương Tây. Trong tiến trình du nhập, mọi sự cóp nhặt thiếu chọn lọc khôn ngoan sẽ phản tác dụng.

 

Dù nâng cao tầm quan trọng của giải pháp trưng cần dân ý, tiểu luận này còn nhiều thiếu sót, vì không đưa ra các mô hình cụ thể để thực thi. Đóng góp này chỉ là ý tưởng khiêm tốn ban đầu để thảo luận mà dĩ nhiên lý thuyết chung không là tất cả cho thực tế Việt Nam.

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment

View My Stats