Richard Javad Heydarian - National Interest
Hoàng Thủy Ngữ
dịch
14/12/2019
Tân lãnh đạo tối cao của Trung Quốc Tập Cận Bình đã loại bỏ
hoàn toàn chính sách ngoại giao ẩn mình của những người tiền nhiệm và
dốc toàn lực vào việc thống trị thế giới.
Khi suy nghĩ về tương lai
trật tự toàn cầu, cố thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu đã cảnh báo rằng, sự trỗi dậy của Trung
Quốc có hậu quả lớn đến mức nó không chỉ khiến các nước láng
giềng phải điều chỉnh sách lược, mà còn đến cả việc cải tổ kiến
trúc an ninh toàn cầu.
Vị cựu lãnh đạo châu Á đã
nói thẳng là, mặc dù “ban đầu người Trung Quốc muốn cùng vai vế
với Hoa Kỳ chia sẻ thế kỷ này”, cuối cùng họ “có ý định trở
thành cường quốc mạnh nhất thế giới”.
Chẳng bao lâu, sau khi nhà
lãnh đạo Singapore qua đời, dự đoán sáng suốt của ông tập hợp thành
thực tế địa chính trị rõ rệt. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia xuất
khẩu lớn nhất thế giới, là nước tiêu thụ hàng hóa cơ bản nhiều
nhất và ngày càng là nguồn đầu tư hàng đầu, đặc biệt trong cơ sở
hạ tầng chiến lược, chính ở châu Á và các nước đang phát triển.
Đồng thời, sức mạnh kinh tế đã chuyển thành quyết đoán chiến lược
và sức mạnh quân sự, khi Trung Quốc thành lập các căn cứ ở nước ngoài,
khởi đầu ở Djibuti, nhưng kín đáo hơn ở Ấn Độ Dương, mở rộng lực
lượng hải quân và cưỡng chế biến các vùng biển lân cận thành “vùng
đất xanh lam quốc gia” của mình.
Trên hết, tân lãnh đạo tối
cao của Trung Quốc, Tập Cận Bình, đã loại bỏ hoàn toàn chính sách
ngoại giao ẩn mình của những người tiền nhiệm và dốc toàn lực vào
việc thống trị thế giới. Ông ta còn bước xa hơn khi đẩy mạnh một “mô hình Trung Quốc độc
đáo” ở nước ngoài, và dần dần thiết lập một “trật tự châu Á cho người châu Á” xuyên
khắp lục địa Á-Âu để loại trừ các cường quốc phương Tây và Nhật
Bản. Mặc dù ngoài mặt được trình bày như một sáng kiến kết nối cả
tỷ đô la, sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), trên hết, có mục
đích đặt nền tảng cho một “trật tự thế giới của Trung Quốc”.
Tuy chưa phải là bá quyền,
người Trung Quốc gần như đã cai trị biển cả trước khi
chủ nghĩa đế quốc châu Âu ra đời. Những cuộc hành trình vượt hai đại
dương của Trịnh Hòa, một đô đốc Hồi giáo từ thời nhà Minh, người
phải dựa rất nhiều vào chuyên môn của các thủy thủ đồng đạo, đã
nhấn mạnh đến sự không thể tách rời vốn có và sự lệ thuộc lẫn
nhau trong mạng lưới văn hóa và thương mại dày dặc trên khắp Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương.
Nhưng thế kỷ này có thuộc
về Trung Quốc không? Có 3 lý do để hoài nghi.
Khả năng đối kháng
của tính ưu việt Mỹ
Cái mốt đang thịnh hành
hiện nay là nói về “thế kỷ của Trung Quốc”. Tuy nhiên, nỗ lực về
tính ưu việt chiến lược của Trung Quốc diễn ra trong giai đoạn Mỹ tái
lập chiến lược, đặc biệt khi chính quyền Donald Trump đã tự kiềm chế
rất ít trong việc thách thức Trung Quốc.
Các quan điểm thông thường
về chính quyền Trump mô tả hình ảnh cuộc triệt thoái chiến lược của
Mỹ, cụ thể là chuyện tổng thống Mỹ không được ưa chuộng trong khu
vực cũng như việc ông quyết định hủy bỏ thỏa thuận TPP. Tuy vậy, một
phân tích tinh tế hơn cho thấy hình ảnh phức tạp hơn nhiều.
Một mặt, Washington tăng
cường Tự do Hoạt động Hàng hải (Freedom of Navigation Operations –
FONOPS) và điều máy bay ném bom hạt nhân tuần tra Biển Đông, công khai
thách thức các yêu sách lãnh thổ quá đáng của Trung Quốc trong không
gian hàng hải tranh chấp. Chính quyền Trump đã cho Ngũ Giác Đài được
rộng quyền hơn để kiểm tra tính quyết đoán hàng hải của Trung Quốc,
bao gồm cả các quyết định liên quan đến Tự do Hoạt động Hàng hải
(FONOPS). Ngay cả lực lượng hải cảnh Hoa Kỳ cũng tham gia, gây thêm áp
lực lên chủ nghĩa bành trướng trên biển của Trung Quốc.
Washington cũng tăng gấp đôi chi phí quân sự ở nước
ngoài dành cho các đồng minh chủ chốt trong khu vực, gồm cả
Philippines, công khai kêu gọi Trung Quốc tháo gỡ các cơ sở quân sự tân
tiến ở Biển Đông, và thậm chí còn coi các lực lượng bán quân sự của Trung Quốc đang
hoạt động trong khu vực là sự mở rộng trên thực tế của hải quân PLA.
Chính quyền Trump còn đưa ra quyết định chưa từng có khi công khai
đề nghị rằng, họ sẽ đến cứu giúp Philippines trong trường hợp xảy ra
xung đột với Trung Quốc ở Biển Đông.
Với sự hỗ trợ của Quốc
hội Hoa Kỳ, chính quyền Trump cũng đã mở rộng quan hệ chiến lược với khu vực
thông qua Luật Sáng kiến Tái bảo đảm châu Á (Asia Reassurance Initiativ
Act – ARIA) trị giá hàng tỷ đô la, nhằm tăng cường phòng thủ và dấu
ấn quân sự và ngoại giao ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, cũng
như 60 tỷ đô la trong sáng kiến Vận
dụng Thúc đẩy Đầu tư Phát triển Tốt hơn (Better Utilization of
Investments Leading to Development – BUILD), dùng để huy động các khoản
đầu tư chất lượng cao của Mỹ trên các thị trường chiến lược trong khu
vực, đặc biệt là ở Đông Nam Á.
Trên mặt trận thương mại,
Hoa Kỳ đã công khai tìm kiếm những thay đổi cơ
bản trong chính sách thương mại và công nghiệp của Trung Quốc, đặt nghi vấn về khả năng tồn tại của
Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), và áp lực các đồng minh và
đối tác tránh xa các khoản đầu tư công nghệ
cao đầy rủi ro của Trung Quốc, đặc biệt trong các lĩnh vực chiến
lược. Trong khi khoảng cách tương đối về kinh tế và quân sự giữa Hoa
Kỳ và Bắc Kinh thu hẹp đáng kể trong thập niên qua,
Trung Quốc vẫn thua xa Hoa Kỳ về các nguồn tài nguyên ròng có thể
huy động được trong giai đoạn xung đột, bao gồm sức mạnh mềm, công
nghệ, nhân lực, phần cứng quân sự, tài nguyên kinh tế, tài năng và
khoáng sản quý.
Sức mạnh tập thể
của liên minh
Các học giả như Michael
Beckley đã lưu ý, “sức mạnh của một quốc gia không
xuất phát từ nguồn tài nguyên gộp nhưng từ nguồn tài nguyên ròng –
nguồn tài nguyên còn lại sau khi trừ chi phí sản xuất chúng”. Trung
Quốc cũng phải đối mặt với những thách thức lớn về cấu trúc nội tại,
bao gồm sự mất cân bằng trong nhân khẩu học, bất ổn xã hội và khủng
hoảng môi trường gia tăng và mất cân bằng trong lĩnh vực bất động sản
và ngân hàng.
Tuy nhiên, sự tê liệt chính
trị trong nước Mỹ cũng gây lo ngại không kém. Nhưng các cuộc khảo sát mới nhất cho thấy hầu hết
người dân trên thế giới vẫn thích Hoa Kỳ lãnh đạo toàn cầu hơn Trung
Quốc. Nhưng điều thực sự làm tăng lợi thế của Mỹ trước Trung Quốc
là mạng lưới liên minh rộng lớn và bền bỉ đáng ngạc nhiên trong
khu vực, đặc biệt là với Nhật Bản, Úc, hai cường quốc hạng trung,
và Ấn Độ ngày càng chia sẻ chung
mối quan tâm, mặc dù không hoàn toàn giống, về việc
Trung Quốc gia tăng quyết đoán.
Trên thực tế, các cường
quốc khác trong khu vực, điển hình là Nhật Bản và Úc, đã cam kết
với một Ấn Độ Thái Bình Dương “tự do và cởi mở”, ủng hộ cuộc
đẩy lùi Trung Quốc do Hoa Kỳ lãnh đạo. Trong nỗ lực này, người ta nên
hiểu những nỗ lực thành công của Nhật,
cùng với Úc, trong việc hồi sinh thỏa thuận TPP mà Trump đã hủy bỏ
qua loa cho xong chuyện.
Trên thực tế, Nhật Bản (240
tỷ USD) tiếp tục đánh bại Trung Quốc (210 tỷ USD) về phẩm chất và
quy mô phát triển cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á và khu vực rộng lớn
hơn. Úc và Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng đã ký một thỏa thuận đầu tư,
với mục đích “phát triển một đường ống trong các dự án phát triển
hạ tầng, để thu hút tư nhân và chính phủ đầu tư”.
Ấn Độ đang riêng biệt mở rộng trợ giúp phát
triển và hợp tác chiến lược với các quốc gia ASEAN. Thay vì dựa vào
chỉ thị và sáng kiến của Mỹ, mỗi cường quốc hạng trung này, hoặc
cùng nhau hay một mình, tham gia cùng với các quốc gia ASEAN, góp phần
xây dựng một trật tự dựa trên các quy tắc ở Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Ngược lại, Trung Quốc hầu như không có một đồng minh đáng tin cậy nào
để quảng bá tầm nhìn và giá trị của mình trong khu vực. Trên thực
tế, cả Bắc Hàn và Pakistan, vốn được xem là đối tác chiến lược thân
cận nhất của Bắc Kinh, đã tìm cách đa dạng hóa quan hệ ngoại giao
trong những năm gần đây.
Chiến lược khôn khéo
của các nước nhỏ
Trong khi Bình Nhưỡng đã
tìm cách đàm phán trực tiếp với Washington,
phần lớn là để loại bỏ các biện pháp trừng phạt đối với nền kinh
tế đang chật vật của mình, thì đến lượt Islamabad quay sang Ả Rập
Saudi, chưa kể đến việc họ liên tục dựa vào sự tài trợ của
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) để giảm lệ thuộc quá mức vào món nợ
đang phình to lên do [đã tham gia] Sáng kiến Vành đai và Con đường.
Trung Quốc đơn giản là không có đồng minh có khả năng và đáng tin
cậy.
Hơn nữa, chúng ta nên nhìn
vào những cố gắng bền bỉ của các quốc gia Đông Nam Á nhằm đa dạng
hóa các đối tác chiến lược và nguồn đầu tư nước ngoài của họ. Mặc
dù được biết từng có những căng thẳng lịch sử với phương Tây, các
nhà lãnh đạo của Malaysia (Mahathir) và Philippines (Duterte), không kể đến giới lãnh đạo cộng sản
Việt Nam, đã hoan nghênh sự hợp tác chiến lược và đầu tư chặt chẽ
hơn từ Hoa Kỳ, và quan trọng nhất là Nhật Bản.
Ngay cả các quốc gia Đông
Nam Á nghèo hơn như Myanmar, Campuchia và Lào cũng đã chủ động tìm kiếm các khoản đầu tư
phát triển và cơ sở hạ tầng của Nhật Bản để giảm phụ thuộc vào
Trung Quốc. Các quốc gia Đông Nam Á, cả nhỏ lẫn lớn hơn, đã ganh nhau
bảo vệ quyền tự
trị chiến lược hậu thuộc địa của họ – trò chơi
khiến các cường quốc lớn chống đối nhau – trong khi tìm cách tránh
phải dựa quá nhiều vào một thế lực
nước ngoài duy nhất.
Nhìn chung, cả các nước Đông
Nam Á có thu nhập trung bình và thấp đều đang đều đặn tìm kiếm, dù trên cơ sở
song phương hay đa phương (thông qua cơ chế ASEAN), đa dạng hóa quan hệ chiến
lược với các cường quốc Ấn Độ-Thái Bình Dương, từ Ấn Độ và Nga đến Nhật Bản,
Trung Quốc và Hoa Kỳ , cũng như các nguồn đầu tư và viện trợ.
Điều này cho thấy các quốc gia
Đông Nam Á không phải là con tốt trên bàn cờ địa chính trị. Thay vào đó, họ
là những người chơi tích cực với các diễn viên đáng nể trong việc định hình
vận mệnh chiến lược của riêng họ. Kết quả của bối cảnh chiến lược rất năng động
và gây tranh cãi này là sự xuất hiện của nhiều trung tâm quyền lực và mức độ tự
do chiến lược khác nhau dành cho mỗi quốc gia, do đó không một cường quốc nào
có thể một mình định hình đầy đủ chương trình nghị sự về an ninh, kinh tế và
ngoại giao khu vực.
Các cuộc điều tra có thẩm quyền ở khắp các quốc gia Đông Nam Á cho thấy, bảy
trong số mười người được hỏi có quan điểm tiêu cực về Sáng kiến Vành đai và
Con đường (BRI) của Trung Quốc, trong khi chưa đến một nửa tỏ ra tin tưởng
vào khả năng của Trung Quốc trong vai trò lãnh đạo có tính xây dựng trong khu
vực. Quốc gia đáng tin cậy nhất trong mắt các quốc gia Đông Nam Á vẫn là Nhật Bản.
Trung Quốc chắc chắn là diễn viên lớn trong khu vực, nhưng khác xa với cái
quyền bá chủ phải có được của nó.
----------------------------------
GIỚI THIỆU CỦA Viet Studies
Nguyên
nhân Trung Quốc hung hăng ở Biển Đông: Sources
Of China’s Assertiveness In The South China Sea (East Asia
Institute (National University of Singapore) 2015)
Bài có ich, phân tích nhiều yếu tố chính trị nội bộ
của Bắc Kinh -- Đại
diện Trung Quốc: Bắc Kinh coi căng thẳng Biển Đông là vấn đề nhỏ, Hà Nội coi là
vấn đề lớn (RFA 14-12-19)
Có
phải Trung Quốc định khích động "Chiến tranh Nhân Dân" để thống trị
Biển Đông? Is
China Planning To Incite A "People's War" To Dominate The South China
Sea? (National
Interest 13-12-19)
Ai
thắng ai thua trong "giai đoạn 1" của thỏa hiệp thương mại Mỹ-Trung: Winners
and losers in Trump’s ‘phase one’ China trade deal (WP 13-12-19)
No comments:
Post a Comment