Huỳnh
Như Phương
18/11/2020
http://www.viet-studies.net/HuynhNhuPhuong_DuNhapLyThuyetPhuongTay.html
1. Dẫn nhập
Cùng với quá trình hiện đại
hóa văn học, Việt Nam đã chứng kiến hoạt động du nhập các lý thuyết văn học
phương Tây từ đầu thế kỷ 20 như một nhân tố tác động đến lý luận và sáng tác
văn học theo hướng mở cửa và hội nhập với thế giới hiện đại. Hoạt động này diễn
biến khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử, chịu sự chi phối của những yếu tố
chính trị, xã hội, văn hóa nhất định. Những năm 1954-1975 là một giai đoạn lịch
sử đặc biệt, khi Việt Nam, do quy định của Hiệp định Genève, bị chia cắt thành
hai miền có chế độ chính trị khác nhau. Nếu ở miền Bắc, lý thuyết văn học
mác-xít và xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chính thống, thì ở miền Nam các lý thuyết
văn học đến từ phương Tây tranh chấp nhau ảnh hưởng và gây ra những tác động đa
chiều và đa dạng đến đời sống văn học.
Hiện tượng du nhập các lý
thuyết văn học phương Tây trên một mảnh đất Đông Nam Á đang có chiến tranh chỉ
có thể cắt nghĩa thấu đáo khi chúng ta xem xét nó trong một bối cảnh rộng hơn:
một xã hội phương Đông đã kinh qua hơn nửa thế kỷ tiếp xúc với văn minh phương
Tây; một chế độ chính trị muốn lấy mô hình dân chủ phương Tây làm kiểu mẫu; những
chủ trương và chính sách văn hóa của những nhà cầm quyền từng được đào tạo
trong chính hệ thống Âu-Mỹ.
Nhìn trong một phối cảnh
hẹp hơn, có thể lý giải việc du nhập các lý thuyết văn học phương Tây ở miền
Nam trong sự tác động và ảnh hưởng của nhà trường đại học và hoạt động báo chí,
xuất bản. Nói cách khác, trong những năm 1954-1975, các lý thuyết văn học
phương Tây (chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, hiện tượng luận, cấu trúc luận,
tiểu thuyết mới, phê bình mới…) được du nhập vào miền Nam qua ba con đường
chính: nhà trường đại học, báo chí và xuất bản. Có thể nói qua việc truyền bá
tư tưởng văn nghệ Âu-Mỹ, Đại học, báo chí và xuất bản đã tác động đến giới sáng
tác, phê bình văn học và trong một phạm vi nhất định, gây ảnh hưởng đến thị hiếu
văn học của công chúng.
.
2. Vai trò của Đại
học
Ở Việt Nam, dưới thời
phong kiến, nền giáo dục và khoa cử chịu ảnh hưởng triết lý và học phong Nho
giáo. Quốc tử giám là mô hình đại học đầu tiên đào tạo ra những nhân tài cho đất
nước theo mẫu người quân tử phương Đông. Cho đến thế kỷ 19, trong khi ở phương
Tây mô hình đại học theo kiểu mới như đại học Humboldt đã hình thành, thì ở Việt
Nam, nhà trường vẫn nằm trong quỹ đạo truyền thống. Đến cuối thế kỷ 19 – đầu thế
kỷ 20, cuộc vận động hiện đại hóa từ lĩnh vực kinh tế - xã hội dần dần lan đến
các lĩnh vực giáo dục, văn học, báo chí, xuất bản.
Riêng trong lĩnh vực khoa
học về văn học, đầu thế kỷ 19 trở về trước ở phương Tây chưa hình thành một đội
ngũ những nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình chuyên nghiệp: họ thường là những
nhà thơ (như T. Tasso, J. W. Goethe…) hay nhà triết học, mỹ học (như A.
Baumgarten, G. Lessing…) bàn về văn học. Đến thế kỷ 19, việc thành lập các khoa
Văn học và Khoa học nhân văn đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện của đội ngũ nhà
nghiên cứu, lý luận, phê bình chuyên nghiệp đồng thời là các giáo sư chuyên giảng
dạy văn học trong nhà trường đại học.
Còn ở Việt Nam, vào những
năm 30 thế kỷ 20, nghĩa là khoảng một thế kỷ sau so với phương Tây, nền nghiên
cứu, lý luận, phê bình văn học chuyên nghiệp mới thực sự ra đời. Và nếu ở
phương Tây thế kỷ 19, các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình chuyên nghiệp xuất
hiện trong bối cảnh một nền đại học phát triển, thì ở Việt Nam giới này lại được
rèn luyện trong môi trường hoạt động văn hóa, báo chí, xuất bản nói chung chứ
không phải trực tiếp trong lĩnh vực giáo dục, thậm chí có thể nói ngược lại rằng
chính họ làm biến cải tính chất của nền giáo dục.
Nền đại học Việt Nam theo
mô hình hiện đại, với một số trí thức được đào tạo ở phương Tây (như Trần Đức
Thảo, Nguyễn Mạnh Tường…) được xây dựng trong bối cảnh cuộc chiến tranh Việt –
Pháp (1945-1954), do hoàn cảnh đất nước, chưa kịp làm gì nhiều trong việc tiếp
thu các thành tựu lý thuyết mỹ học và văn học phương Tây. Cho đến khi miền Nam
Việt Nam có điều kiện tiếp xúc sâu rộng với văn hóa phương Tây vào những năm
1954-1975, thì quy luật hiện đại hóa nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học mới có
điều kiện phát huy tác dụng một lần nữa. Có thể nói, sau một thế kỷ, như một
quy luật, đại học miền Nam đi theo tinh thần của Đại học Humboldt, và với vai
trò của nó, một nền nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học mới từng bước hình
thành trên cơ sở tiếp thu nguồn ảnh hưởng phương Tây, đồng thời kế thừa kết quả
của những học giả trước Cách mạng Tháng Tám vốn cũng chịu ảnh hưởng của khoa
nghiên cứu văn học phương Tây qua con đường của báo chí, xuất bản hơn là của
nhà trường.
Như vậy,
nói đến sự du nhập các lý thuyết văn học phương Tây ở miền Nam Việt Nam, trước
hết cần chú ý vai trò của đại học. Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, Đại hội Giáo
dục quốc gia, được tổ chức ở Sài Gòn năm 1958 đề ra ba nguyên tắc “nhân bản,
dân tộc và khai phóng”. Nguyên tắc thứ nhất thứ nhất khẳng định mục tiêu phục
vụ con người, xem con người là giá trị tối thượng. Nguyên tắc thứ hai chi phối
việc giảng dạy, phổ biến văn hóa dân tộc trên nền tảng đạo đức truyền thống,
thu hồi chủ quyền quốc gia đối với các cơ sở giáo dục, chuyển ngôn ngữ chính
trong giảng dạy từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Nguyên tắc thứ ba hướng nền giáo
dục đến con đường tương lai của nhân loại, đề cao việc tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, tiếp cận những thành tựu khoa học hiện đại trên thế giới.
Ba nguyên tắc nói trên gắn
liền với chủ trương vừa “bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền
thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc”, vừa “tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển
xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và
xã hội, làm cho xã hội tiến bộ, tiếp cận với văn minh thế giới”[1]. Sau
khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ và chính quyền miền Nam rơi vào tay giới quân sự, ba
nguyên tắc trên được tái khẳng định, với một vài điều chỉnh về ngôn từ, trong Đại
hội Giáo dục toàn quốc tổ chức tại Sài Gòn năm 1964. Trong cuộc họp báo của Nội
các chiến tranh ngày 27-7-1966, Nguyễn Lưu Viên, phó chủ tịch đặc trách văn hóa
xã hội, đã đọc diễn văn, nêu rõ: “chánh sách văn hóa giáo dục phải theo định luật
của sự phát triển của một nước chậm tiến nông nghiệp mới thu hồi độc lập đang
vươn mình để tiến trên con đường phát triển kinh tế, xây dựng dân chủ, mà không
mất bản sắc truyền thống của dân tộc, kiến tạo một xã hội tiến bộ mà không mất
gốc rễ”[2].
Tất nhiên đó là những chủ trương trên lý thuyết.
Trong chương trình trung
học, ngay từ năm cuối, ở lớp 12 – trước năm 1970 gọi là lớp đệ nhất – học sinh
đã bước đầu tiếp xúc khái quát với tư tưởng phương Tây. Học sinh tất cả các
chuyên ban phải học hai môn đạo đức học và luận lý học (lô-gích học), riêng học
sinh ban C còn học thêm hai môn tâm lý học và siêu hình học. Họ đã làm quen một
cách sơ lược với quan niệm của Socrate, Platon, Aristote, Descartes, Kant,
Hegel, Durkheim, Comte, Bergson, Freud, Sartre... Đặc biệt, môn tâm lý học dạy
những bài có liên quan đến các lý thuyết mỹ học và văn học phương Tây như “Ý thức
và vô thức”, “Đau khổ và khoái lạc”, “Cảm xúc”, “Đam mê”, “Cảm giác và tri
giác”, “Ảnh tượng và trí tưởng tượng”, “Ký ức và hoài niệm”, “Ngôn ngữ và liên
tưởng”…[3].
Nhờ vậy, khi vào học các trường đại học văn khoa, những học sinh này không thấy
xa lạ với những triết thuyết phương Tây được trình bày một cách hệ thống và cặn
kẽ hơn.
Trên lãnh vực giáo dục đại
học, năm 1957, Viện Đại học Sài Gòn, Viện Đại học Huế và Viện Đại học Đà Lạt được
thành lập. Ở cả ba viện đại học này đều có trường/ phân khoa đại học Văn khoa,
với tư cách là trung tâm nghiên cứu và giảng dạy các môn khoa học xã hội và
nhân văn: triết học, văn chương, lịch sử, tâm lý học, xã hội học… Ở trường Đại
học Văn khoa Sài Gòn, đảm trách việc giảng dạy các chứng chỉ có liên quan đến
tư tưởng Âu – Mỹ là những giáo sư nổi tiếng: Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Kiết,
Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Thành Trị, Nguyễn Khắc Hoạch, Đỗ Khánh Hoan…,
về sau được tiếp nối bởi những giảng viên trẻ hơn: Trần Đỗ Dũng, Đặng Phùng
Quân, Nguyễn Trọng Văn, Lê Tử Thành, Trương Thị Diệu Lan… Ở trường Đại học Văn
khoa Huế, những tên tuổi gắn liền với việc phổ biến tư tưởng Âu – Mỹ có thể kể
là Cao Văn Luận, Lâm Ngọc Huỳnh, Lê Thanh Minh Châu, Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên,
Nguyễn Ngọc Lan, Bửu Ý, Lê Khắc Cầm… Tạp chí Đại học và Ban tu
thư đại học đầu tiên của miền Nam xuất phát từ Viện Đại học Huế.
Hai viện đại học Sài Gòn
và Huế là cơ sở đào tạo công lập. Còn Viện Đại học Đà Lạt là cơ sở tư thục thuộc
quyền sở hữu của Hội Đại học Đà Lạt mà hội viên là các giám mục thuộc Giáo hội
Công giáo Việt Nam, được phép hoạt động từ ngày 8-8-1957 và chính thức thu nhận
sinh viên từ đầu năm học 1958-1959. Đại học Đà Lạt có hội đồng quản trị mà chủ
tịch đầu tiên là giám mục Nguyễn Văn Bình, viện trưởng đầu tiên là linh mục
Nguyễn Văn Lập. Trường Đại học Văn khoa ở đây do linh mục Lê Văn Lý làm khoa
trưởng, thu hút sự cộng tác của các giáo sư Nguyễn Thế Anh, Bùi Xuân Bào, Phạm
Văn Diêu, Trần Thái Đỉnh, Lê Xuân Khoa, Vũ Khắc Khoan, Bửu Lịch, Trần Trọng
San, Nguyễn Sỹ Tế, Lê Thành Trị, Nguyễn Văn Trung, Trần Minh Cẩm (Thiện Cẩm),
Trương Bá Cần, Nguyễn Khắc Dương, Phạm Cao Dương, Bửu Dưỡng, Phan Khoang, Lê Hữu
Mục, Lê Trung Nhiên, Lý Chánh Trung… Chính nơi đây đã đào tạo những khóa thầy
cô giáo dạy triết học đầu tiên cho các trường trung học ở miền Nam. Kỷ yếu của
nhà trường còn ghi tên những sinh viên tốt nghiệp sau này trở thành nhà văn,
nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học và triết học: Hoàng Ngọc Biên, Vĩnh Đễ, Uông Đại
Bằng, Nguyễn Xuân Hoàng, Huỳnh Thanh Tâm (Huỳnh Phan Anh), Nguyễn Trọng Văn,
Nguyễn Văn Lục, Trần Đỗ Dũng, Lê Mạnh Thát, Nguyễn Nhật Duật, Võ Văn Điểm (Võ
Trường Chinh), Nguyễn Quang Tuyến… Đại học Đà Lạt cho xuất bản tạp chí Tri
Thức, công bố một số bài viết giới thiệu các hiện tượng chịu ảnh hưởng
khuynh hướng triết học và văn học phương Tây.
Ở Sài Gòn, năm 1964, Khối
Ấn Quang thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập Viện Đại học Vạn
Hạnh do Thượng tọa Thích Minh Châu làm Viện trưởng. Các phân khoa Phật học, Văn
học và Khoa học nhân văn của Viện thu hút nhiều giáo sư nổi tiếng: Thích Mãn
Giác, Thích Nguyên Tánh (Phạm Công Thiện), Lê Mạnh Thát, Ngô Trọng Anh, Kim Định,
Lê Tôn Nghiêm… Viện thành lập Ban Tu thư và xuất bản tạp chí Tư Tưởng,
đăng nhiều bài nghiên cứu sâu sắc về Thiền học, giáo dục học, hiện tượng luận,
cấu trúc luận… Ba năm sau, 1967, như một đối trọng với Khối Ấn Quang, Khối Việt
Nam Quốc tự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng thành lập Viện Đại
học Phương Nam và Văn khoa là một trong ba phân khoa của Viện.
Ở đồng bằng sông Cửu
Long, năm 1966, Viện Đại học Cần Thơ được thành lập, với bốn phân khoa, trong
đó có Văn khoa. Viện ra mắt tạp chí An Bình. Sau đó, những cơ sở
đào tạo khác lần lượt ra đời: Viện Đại học Phương Nam (1967), Viện Đại học An
Giang (1970) Viện Đại học Cao Đài (1970), Viện Đại học Minh Đức (1970).
Các trường đại học thiên
về khoa học xã hội và nhân văn ở miền Nam (như Đại học Văn khoa, Đại học Vạn Hạnh,
Đại học Đà Lạt, Đại học Minh Đức…) chủ yếu tuyển sinh bằng hình thức ghi danh
(đăng ký) chứ không qua thi tuyển. Hàng năm ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn
có đến gần 1.000 sinh viên theo học các ban Văn chương và Triết học, trong đó
nhiều người là viên chức vừa làm vừa học.
Trong việc giới thiệu và
quảng bá tư tưởng triết học, mỹ học và văn học phương Tây, có thể khẳng định rằng
đại học miền Nam, tập trung là các trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Huế, Viện
Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Vạn Hạnh, đóng một vai trò rất quan trọng. Trong
điều kiện một nền tự trị đại học còn sơ khai và hạn chế, ở các viện đại học,
bên cạnh những phân khoa Phật học, Triết học Đông phương thu hút những nhà
nghiên cứu về tư tưởng văn học Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản…; các phân khoa Văn
học và Triết học Tây phương là tác nhân cho sự ra đời của những công trình
nghiên cứu về tư tưởng văn học Âu-Mỹ. Đó cũng là nhu cầu tự thân của một nền đại
học theo quỹ đạo giáo dục phương Tây. Thiết kế theo hệ thống chứng chỉ, chương
trình đào tạo của các trường đại học Văn khoa hay các phân khoa Khoa học nhân
văn đều có những môn học liên quan đến một số lý thuyết triết học và văn học
phương Tây hiện đại.
Việc giới thiệu và giảng
dạy rộng rãi, đa dạng các khuynh hướng triết học và văn học phương Tây, một mặt
thỏa mãn nhu cầu có tính thời thượng của công chúng, mặt khác đáp ứng một đòi hỏi
về kiến thức toàn diện mà đại học trang bị cho sinh viên. Trên thực tế, Nguyễn
Văn Trung không chỉ nghiên cứu, giảng dạy về chủ nghĩa hiện sinh mà cả về triết
học Phật giáo (Biện chứng giải thoát trong Phật giáo), Marx (Nhận diện
Marx), Lenin (Bài học cách mạng của Lenin), cấu trúc luận, tiểu thuyết
mới… Cũng vậy, Trần Thái Đỉnh còn nghiên cứu, giảng dạy về triết học Descartes,
Kant, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận, biện chứng pháp Platon, Hegel,
Marx… Lê Tôn Nghiêm còn viết về Socrate, triết học cổ đại và trung đại… Việc phổ
biến tư tưởng triết học và văn học Âu-Mỹ trong bối cảnh một nền đại học mới xây
dựng muốn cập nhật những thành tựu của văn minh phương Tây là điều dễ hiểu.
Chính môi trường đại học
đã tập hợp và đào tạo những nhà nghiên cứu triết học và văn học, góp phần làm
xuất hiện những nhà văn, nhà phê bình văn học chịu ảnh hưởng tư tưởng văn học
phương Tây, đồng thời tạo điều kiện hình thành một công chúng yêu thích triết học
và văn học phương Tây. Nhờ tính độc lập, dù là tương đối, với chính sách của
nhà cầm quyền, mà giáo dục đại học ở miền Nam phần nào chứng minh cho nhận định
của K. Jaspers: “Nếu trường đại học phục vụ khoa học và học thuật và nếu khoa học
và học thuật chỉ có ý nghĩa trong chừng mực chúng là bộ phận của một đời sống
trí thức toàn diện, thì đời sống trí thức này chính là huyết mạch của trường đại
học”[4].
.
3. Vai trò của báo
chí và xuất bản
Cùng với đại học, với sự
phát triển về số lượng và sự đa dạng về khuynh hướng, báo chí và xuất bản có
vai trò hết sức quan trọng trong việc giới thiệu, quảng bá các lý thuyết văn học
phương Tây. Trong thế giới báo chí phong phú và phức tạp ở miền Nam, có thể nói
đến sự đóng góp của một số tạp chí định kỳ trên lĩnh vực này.
Trong số các tạp chí định
kỳ đăng tải những bài nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, có thể chia ra
thành hai loại: Loại thứ nhất là những tạp chí có tính chất học thuật do các
trường đại học xuất bản, là tiếng nói chính thức của trường đại học đó, hoặc do
người từ giới đại học đứng ra thành lập. Loại tạp chí này thường đăng những bài
nghiên cứu chuyên sâu, uyên bác, có giá trị học thuật, nên kén chọn độc giả và
lưu hành không thật rộng rãi. Trong loại này có thể kể Tạp chí Đại Học của
Viện Đại học Huế, do linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng kiêm chủ nhiệm, nơi
đăng bài của các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Lê Tuyên, Nguyễn Nam Châu…; Tạp chí Tư Tưởng của
Viện Đại học Vạn Hạnh, do Thượng tọa Thích Minh Châu làm chủ nhiệm, tập hợp những
giáo sư là tu sĩ Phật giáo hay những người cộng tác với viện đại học này: Nguyễn
Đăng Thục, Thích Quảng Độ, Bùi Tường Huân, Phạm Công Thiện, Ngô Trọng Anh, Lê
Tôn Nghiêm, Tuệ Sỹ, Như Hạnh…; Tạp chí Tri Thức của Viện Đại học Đà Lạt, do
linh mục Mai Văn Hùng làm chủ nhiệm, có sự cộng tác của các giáo sư, học
giả Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Khắc Dương, Thiện Cẩm, Kim Định, Nguyễn
Văn Hòa, Cung Giũ Nguyên, Đỗ Ngọc Long, Nguyễn Bạt Tụy…; Tạp chí Nghiên Cứu Văn Học do
linh mục Thanh Lãng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, có sự cộng tác của các giáo sư ở
Đại học Văn khoa Sài Gòn: Nguyễn Văn Trung, Phạm Việt Tuyền, Nguyễn Khắc Ngữ,
Phạm Cao Dương, Nguyễn Trọng Văn… ; Tạp chí Văn Khoa do một nhóm giáo sư Trường Đại
học Văn khoa Sài Gòn chủ trương, do Nguyễn Thiên Thụ làm chủ bút, có sự tham
gia của Nguyễn Khuê, Trần Đỗ Dũng, Trần Quang Huy, Trần Trọng San, Nguyễn Văn
Sâm…
Loại thứ hai là những tạp
chí kết hợp đăng những bài nghiên cứu, lý luận, phê bình với sáng tác văn học.
Loại này hầu hết do những nhà văn hay học giả ngoài giới đại học chủ trương. Những
bài nghiên cứu, lý luận, phê bình trên các tạp chí này thường gắn liền với thời
sự văn học hiện đại, đáp ứng nhu cầu trực tiếp của người sáng tác và công chúng
rộng rãi, nên sức phổ biến mạnh và tính khuynh hướng cũng bộc lộ rõ hơn loại
thiên về học thuật trên đây.
Trong loại này, có thể
chia thành hai tiểu loại. Một là những tạp chí chuyên về văn học nghệ thuật. Đó
là Sáng Tạo do
Mai Thảo chủ biên; Văn do
Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm, Trần Phong Giao, Nguyễn Xuân Hoàng, Mai Thảo lần
lượt làm thư ký tòa soạn; Khởi Hành và Thời Tập do Viên Linh chủ biên; Văn Nghệ do
Lý Hoàng Phong làm chủ nhiệm; Hiện Đại và Nhà Văn do Nguyên Sa chủ trương; Văn Học do Phan
Kim Thịnh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút; Giữ Thơm Quê Mẹ do Nhất Hạnh làm chủ nhiệm,
Trụ Vũ và Hoài Khanh lần lượt làm thư ký tòa soạn…
Tiểu loại thứ hai là những
tạp chí liên ngành chính trị, xã hội, văn hóa, văn nghệ, trong đó có đăng những
bài nghiên cứu, lý luận, phê bình văn nghệ. Đó là trường hợp Bách Khoa do
Hoàng Minh Tuynh rồi Lê Ngộ Châu làm chủ nhiệm, Hành Trình và Đất Nước do Nguyễn
Văn Trung làm chủ nhiệm, Lý Chánh Trung làm chủ bút, Trình Bầy do Thế
Nguyên làm chủ nhiệm kiêm chủ bút…
Những công trình nghiên cứu,
dịch thuật có liên quan đến các lý thuyết văn nghệ phương Tây được các học giả
trong và ngoài giới đại học thực hiện, ngoài một số được công bố trên các tạp
chí nói trên, phần lớn được xuất bản thành sách. Qua danh mục xuất bản, có thể
ghi nhận tính khuynh hướng của những nhà xuất bản có in sách liên quan đến các
lý thuyết mỹ học và văn học phương Tây. Khuynh hướng giáo khoa (Trí Đăng, Lửa Thiêng) in
sách của Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Xung, Nguyễn Thiên Thụ, Trần Đỗ Dũng, Đặng
Phùng Quân… Khuynh hướng
hiện đại hóa (Thời Mới, Giao Điểm, Ca Dao) in sách của A. Maurois, A.
Camus, K. Jaspers, G. Gusdorf, M. Heidegger, A. Niel, I. Bochenski, F.
Challaye, W. Kaufmann, Trần Thái Đỉnh, Tràng Thiên, Đặng Tiến… Khuynh hướng Phật giáo nhập thế
(Lá Bối, An Tiêm) in sách của Krishnamurti, S. Freud, M. Heidegger, Nhất Hạnh,
Phạm Công Thiện… Khuynh hướng
Công giáo dấn thân (Nam Sơn, Trình Bầy) in sách của Nguyễn Văn Trung, Lý
Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân, Vũ Đình Lưu,
Hoàng Ngọc Biên, Thế Nguyên… Ngoài ra, một số nhà xuất bản khác: Kinh Thi, Tân An, Ra Khơi, Thế Sự,
Hồng Đức, Nhị Nùng, Trẻ, Tổ Hợp Gió, Hoàng Đông Phương, Đại Nam Văn Hiến… cũng
góp phần nhất định vào việc phổ biến tư tưởng văn nghệ phương Tây.
Ở đây có thể điểm qua một
số nhà xuất bản tương đối nổi bật. Nhà xuất bản (Nxb) Thời Mới do Võ Phiến chủ trương, xuất bản một
số sách về trào lưu văn học hiện đại như Những trào lưu lớn của tư tưởng
hiện đại của A. Maurois (Bản dịch của Trần Phong Giao, 1964), Văn
học Nga-xô hiện đại của Tràng Thiên (1965)… Xuất bản năm 1963, Tiểu
thuyết hiện đại của Tràng Thiên là cuốn sách trình bày khá sớm một
quan niệm cách tân về xây dựng cốt truyện, nhân vật và kỹ thuật của tiểu thuyết.
Tác giả cũng giới thiệu sơ lược phong cách nghệ thuật của năm tiểu thuyết gia
có ảnh hưởng quan trọng trong văn học thế kỷ 20: W. Faulkner, C. Simon, T.
Capote, A.-R. Grillet, U. Johnson… Chuyên khảo Triết học hiện sinh của
Trần Thái Đỉnh, do Thời Mới in năm 1967, trở thành một hiện tượng xuất bản. Những
chương của cuốn sách này đã được công bố trên tạp chí Bách Khoa đầu
những năm 1960 với bút hiệu Trần Hương Tử, nhưng khi khởi thảo, tác giả có chủ
định xây dựng thành một công trình hệ thống, cân đối. Trong tinh thần đó, cuốn
sách giới thiệu một cách hiểu về chủ nghĩa hiện sinh, hai ngành hữu thần và vô
thần của nó, sau đó là những tác gia chủ yếu của trào lưu này: Kierkegaard,
Nietzsche, Husserl, Jaspers, Marcel, Sartre, Heidegger. Mặc dù Trần Thái Đỉnh
có khá nhiều định kiến với chủ nghĩa hiện sinh vô thần, chuyên khảo này là một
tài liệu tham khảo có giá trị cho đến ngày nay.
Ra mắt cùng thời và có
khuynh hướng gần gũi với Nxb Thời Mới, Nxb Giao Điểm của Trần Phong Giao xuất bản, bên cạnh
tủ sách sáng tác và dịch thuật, một số sách bàn luận về văn học Pháp và văn học
Việt Nam như Sứ mệnh văn nghệ hiện đại của A. Camus (Bản dịch
của Trần Phong Giao), Vũ trụ thơ của Đặng Tiến, Chúng
ta qua cách viết của Võ Phiến…
Hai nhà xuất bản do các
tu sĩ Phật giáo có tinh thần dân tộc sáng lập là Lá Bối và An Tiêm đã cho ra mắt nhiều cuốn sách công phu về
triết học và văn học. Lá Bối do Nhất Hạnh và Từ Mẫn chủ trương, xuất bản nhiều
sách về tư tưởng triết học và văn học phương Tây, đồng thời với sách về tư tưởng
phương Đông, đề cao sự nhập cuộc và hiện đại hóa của Phật giáo. An Tiêm, do
Thanh Tuệ chủ trương, cũng gần với khuynh hướng Phật giáo nhập cuộc và hiện đại
hóa của Lá Bối, nhưng có phần “phá cách” hơn. Nơi đây ấn hành bản dịch của những
công trình có giá trị, như Đường vào hiện sinh của
Krishnamurti (Bản dịch của Trúc Thiên, 1969), Văn học thế giới hiện đại của
nhiều tác giả (Bản dịch của Bửu Ý, 1973), có cả những công trình nổi tiếng thế
giới nhưng chưa hẳn phù hợp với quan điểm Phật giáo thuần thành, như Nghiên
cứu phân tâm học của S. Freud (Bản dịch của Vũ Đình Lưu, 1969), Triết
lý là gì? của M. Heidegger (Bản dịch của Phạm Công Thiện, 1969).
Những cuốn sách mang tinh
thần “phá cách” và “phá chấp” nhất do An Tiêm xuất bản là của Phạm Công Thiện,
tức Thích Nguyên Tánh: Hố thẳm của tư tưởng, Im lặng của hố
thẳm, đặc biệt là Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Là
người có tư duy triết học sâu sắc kết hợp với cảm quan nghệ sĩ tinh tế, vừa được
đào tạo quy củ, vừa có tinh thần “nổi loạn” với nhà trường và xã hội, Phạm Công
Thiện đã đặt lại nhiều vấn đề tư tưởng và văn hóa, khiến một số thức giả đương
thời phiền lòng, nhưng lại cảm hóa và thu hút nhiều độc giả trẻ. Mang tinh thần
chủ toàn của đạo học Đông phương, Phạm Công Thiện kết hợp triết học và mỹ học
phương Tây với tinh thần Phật giáo. Là những bài viết đăng rải rác trên các tạp
chí được tập hợp, những cuốn sách của ông phản ánh “tâm trạng của một người bị
giam hãm trong đời sống”, như lời tác giả, nhiều khi chứa đựng những ẩn dụ thi
vị của một triết nhân hơn là những luận chứng chặt chẽ của một nhà khoa học.
Trong khi đó, Nam Sơn và Trình Bầy là hai nhà xuất
bản quy tụ nhiều trí thức Công giáo khuynh tả dấn thân. Nam Sơn công bố nhiều
công trình nghiên cứu sâu sắc về khoa học xã hội và nhân văn mà ít sáng tác văn
học. Hầu hết sách của Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung đều thuộc
tủ sách Nghiên cứu xã hội của Nxb này, trong đó phổ biến rộng
nhất có thể kể: Triết học tổng quát, Đưa vào triết học, Lược
khảo văn học (3 tập), Ca tụng thân xác, Xây dựng
tác phẩm tiểu thuyết, Hành trình trí thức của Karl Marx, Nhận
định (6 tập) của Nguyễn Văn Trung; Hành trình đi vào triết học, Tìm
hiểu đời sống xã hội, Xã hội và con người, Tìm hiểu triết
học của Karl Marx của Trần Văn Toàn; Tìm về dân tộc, Cách
mạng và đạo đức, Ba năm xáo trộn của Lý Chánh Trung…
Thành lập muộn hơn Nxb
Nam Sơn, Nxb Trình Bầy do Thế Nguyên đứng tên xin phép, in cả sáng tác và khảo
luận, đặc biệt có tủ sách Nghiên cứu triết học do Nguyễn Ngọc
Lan điều khiển và tủ sách Nghiên cứu và phê bình văn học do Đỗ
Long Vân điều khiển. Tủ sách thứ nhất cho ra đời một số công trình khá độc đáo
như Descartes, nhìn từ phương Đông của Nguyên Sa; Đâu
là căn nguyên tư tưởng hay con đường triết lý từ Kant đến Heidegger của
Lê Tôn Nghiêm, Luận lý và tư tưởng trong huyền thoại (Đặt lại vấn đề
văn minh với C. Lévi-Strauss) của Trần Đỗ Dũng… Tủ sách thứ hai
có Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương và Vô Kỵ giữa chúng
ta (Hiện tượng Kim Dung) của Đỗ Long Vân, Mấy vấn đề văn nghệ của
Lữ Phương, Một bông hồng cho văn nghệ của Nguyên Sa, Ngôn
ngữ và thân xác của Nguyễn Văn Trung, Sinh khí và nhịp điệu của
Vũ Đình Lưu, Marcel Proust – con người xã hội và Tuyển
tập các nhà văn Pháp hiện đại của Hoàng Ngọc Biên … Hoạt động của cả tạp
chí và Nxb cùng tên Trình Bầy cho thấy một khuynh hướng trí thức có tinh thần
dân chủ – xã hội ở miền Nam, đồng thời rất coi trọng việc học tập tri thức
phương Tây.
Nxb Ca Dao do Hoài Khanh sáng lập
đã ấn hành một loạt dịch phẩm nghiêm túc và có chất lượng cao: Triết học
nhập môn của K. Jaspers (Bản dịch của Lê Tôn Nghiêm, 1974), Kierkegaard
– người chứng của chân lý của G. Gusdorf (Bản dịch của Tôn Thất Hoàng,
1969), Siêu hình học là gì? của M. Heidegger (Bản dịch của Trần
Công Tiến, 1974), Những tiếng kêu lớn của chủ nghĩa nhân bản hiện đại của
A. Niel (Bản dịch của Mạnh Tường, 1969), Triết học Tây phương
hiện đại của I. Bochenski (Bản dịch của Tuệ Sỹ, 1969), Nietzsche
– cuộc đời và triết lý của F. Challaye (Bản dịch của Mạnh Tường,
1969), Nghệ thuật, truyền thống và chân lý của W. Kaufmann (Bản
dịch của Hoài Khanh, 1967)…
Nxb Lửa Thiêng do một nhóm giáo sư Đại
học Văn khoa Sài Gòn sáng lập, xuất bản sách sử dụng trong nhà trường đại học.
Về tư tưởng phương Tây, có những cuốn Triết học và khoa học, Triết
học và văn chương, Chân dung triết gia của Đặng Phùng
Quân, Văn học và ngữ học (2 quyển) của Bùi Đức Tịnh, Thẩm
mỹ học thông khảo của Nguyễn Văn Xung, Descartes của
Trần Đỗ Dũng… Đáng chú ý nhất trong số đó là công trình Thẩm mỹ học
thông khảo (1974) của Nguyễn Văn Xung, trình bày mạch lạc một số học
thuyết thẩm mỹ phương Tây như thuyết “cái đẹp phi khái niệm” của Kant, thuyết
“trực giác và hình tướng” của D. Croce, thuyết “cự ly tâm lý” của Bullough,
thuyết “di tình tác dụng” hay “vật ngã đồng nhất” của Lipps, thuyết “nội mô phỏng”
của Munsterberg, K. Groos và Vernon Lee. Mặc dù có phần chịu ảnh hưởng từ công
trình Tâm lý văn nghệ của Chu Quang Tiềm, cuốn sách của Nguyễn
Văn Xung có lẽ là một trong những công trình sớm nhất ở nước ta giới thiệu một
cách hệ thống các trường phái mỹ học phương Tây hiện đại, bước đầu vận dụng giải
thích một số hiện tượng văn nghệ Việt Nam.
Sự truyền bá tư tưởng mỹ
học và văn học phương Tây được nhận diện trực tiếp và rõ ràng nhất qua các công
trình dịch thuật và nghiên cứu những nền văn hóa khác nhau: Pháp, Đức, Mỹ…
Trong các kênh truyền dẫn tư tưởng phương Tây vào miền Nam, trực tiếp nhất vẫn
là kênh dịch thuật. Nhiều công trình nghiên cứu và sáng tác của các tác gia
Âu-Mỹ đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt có thể xem là đóng góp rõ rệt nhất của
các dịch giả miền Nam. Những năm gần đây, một số dịch phẩm này đã được phép tái
bản, trở thành tài liệu tham khảo cho giới nghiên cứu nước ta, chẳng hạn sách của
F. Nietzsche, S. Kierkegaard, S. Freud, M. Heidegger, K. Jaspers, J.-P. Sartre,
A. Camus, A. Gide, S. de Beauvoir… Các cuốn sách Tổng kết văn học thế kỷ
20 (Bản dịch của Phạm Đình Khiêm, Đại học Huế xb, 1963) và Cuộc
phiêu lưu tư tưởng văn học châu Âu thế kỷ 20 (Bản dịch của
Vũ Đình Lưu, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb, 1971) của R. Albérès, Văn
học thế giới hiện đại (Bản dịch của Bửu Ý, Nxb An Tiêm, 1973) của R.
Albérès và các cộng sự, Tiểu thuyết hiện đại (Bản dịch của
Dương Thanh Bình, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb, 1971) của D. Brewster
và J. A. Burrell cũng là những trường hợp đưa tư tưởng văn học phương Tây đến với
công chúng miền Nam bằng con đường dịch thuật. Gần như đồng thời với dịch thuật
là các công trình biên khảo, tổng thuật, giới thiệu các trào lưu và tác gia tư
tưởng Âu-Mỹ, từ khái quát đến cụ thể. Gần đây có một ít cuốn sách dạng này được
tái bản, như sách của Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Văn Trung, Trần Văn
Toàn, Huỳnh Phan Anh…
Về mặt xuất bản và phát
hành, dân số miền Nam giai đoạn 1954-1975 khoảng 20 triệu người, tức là chưa bằng
một phần tư hiện nay, nhưng tirage sách khảo cứu lý luận, phê bình trung bình
khoảng 2.000, còn tạp chí văn học khoảng 3.000. Cá biệt có trường hợp như cuốn Triết
học hiện sinh của Trần Thái Đỉnh in hai lần, số lượng lên đến 7.000 cuốn.
Tư tưởng văn nghệ hiện đại
Âu - Mỹ được phân tích và giới thiệu cặn kẽ trên các trang tạp chí trước khi tập
hợp để xuất bản thành sách đã có ảnh hưởng nhất định đến các nhà văn. Cùng với
điều đó là việc dịch thuật và quảng bá các tác phẩm văn học cổ điển và hiện đại
nước ngoài. Phân tâm học, hiện tượng luận, kỹ thuật dòng ý thức được vận dụng
vào việc miêu tả thế giới và con người trong văn xuôi. Những sáng tác thơ, truyện,
kịch chịu ảnh hưởng tư tưởng văn nghệ Âu-Mỹ một cách gián tiếp thông qua những
hình tượng là những hiện tượng phức tạp và luôn gây tranh cãi. Trường hợp này
đang được đánh giá và chọn lọc rất dè dặt, vì khối lượng tác phẩm quá lớn, đòi
hỏi một lực lượng nghiên cứu đông đảo. Gần đây, chỉ có một số rất ít tác phẩm
thuộc loại này được nhắc đến một cách thận trọng trên báo chí. Ngoài ra, còn có
thể nói đến ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của tư tưởng văn nghệ phương Tây
trong quan niệm sống và lối sống của một bộ phận công chúng, đòi hỏi cần có sự
khảo sát kỹ lưỡng, đặc biệt qua những cuộc điều tra xã hội học.
4. Kết luận
Trên đây có thể xem là những
phương diện khác nhau của bức tranh toàn cảnh về sự du nhập các lý thuyết văn
nghệ phương Tây ở miền Nam. Cùng với điều đó, và có lẽ quan trọng hơn, là đi
sâu nghiên cứu những trào lưu tư tưởng với những tác gia của nó, đã được truyền
bá, tiếp thu và gây ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau trong đời sống văn học
nghệ thuật miền Nam như thế nào. Đó là chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, tiểu
thuyết dòng ý thức, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa Marx, lý thuyết tíếp nhận…
Ở đây có hai hiện tượng cần
đặc biệt nhấn mạnh. Hiện
tượng thứ nhất là chủ nghĩa hiện sinh, trào lưu gây nhiều ảnh hưởng trái
nghịch nhất, được tiếp thu cả từ phía những người khuynh tả lẫn những người
khuynh hữu, những người vô thần lẫn những người hữu thần, từng được đề cao hết
lời nhưng cũng bị đả kích kịch liệt. Nó đã tác động không chỉ trong lĩnh vực
văn học mà cả trong lĩnh vực âm nhạc, hội họa, sân khấu, điện ảnh…
Hiện tượng thứ hai là mỹ học, lý luận - phê bình văn học mác-xít, vượt qua những rào cản của một chế độ kiểm
duyệt khắc nghiệt, bằng nhiều cách khác nhau, đã hiện diện và được vận dụng
ngay “trong vòng phấn trắng” (chữ của Thế Nguyên) của văn nghệ các đô thị miền
Nam. Trong phạm vi đại học miền Nam, chủ nghĩa Marx được nghiên cứu và giảng dạy
là một chủ nghĩa Marx đã khúc xạ qua lăng kính học thuật Âu – Mỹ, được coi trọng
khai thác khía cạnh nhân bản và thiên về lý thuyết, chủ yếu là các tác phẩm
Marx thời trẻ. Một chủ nghĩa Marx như vậy dễ dàng cộng hưởng với tâm thế của những
trí thức khuynh tả có khát vọng về độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
Tìm hiểu việc quảng bá
các lý thuyết văn học phương Tây ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, không thể
không đặt câu hỏi: do đâu
mà việc truyền bá đó diễn ra mạnh mẽ trong một thời gian không dài như vậy?
Tính từ 1930 cho đến 1954, Sài Gòn và một số đô thị miền Nam vẫn nằm trong ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây nhưng mặc dù quá trình hiện đại hóa đang diễn ra,
sự truyền bá về mặt này vẫn còn sơ sài và hạn hẹp. Nếu chỉ xét trên chủ trương
của nhà cầm quyền, thì khó nói là những người cầm quyền như Nguyễn Văn Xuân, Trần
Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm… ít thiện cảm với văn minh phương Tây hơn Ngô Đình Diệm
và Nguyễn Văn Thiệu. Vậy có lẽ phải tìm câu trả lời từ nguyên nhân trực tiếp.
Theo chúng tôi, việc quảng
bá tư tưởng văn học phương Tây sở dĩ mạnh mẽ như vậy trước hết là vì ảnh hưởng
của những người truyền bá. Đó là những trí thức du học ở các nước Âu-Mỹ (Pháp,
Bỉ, Đức, Hoa Kỳ…) đã thành tài và trở về sau 1954. Họ lần lượt chiếm giữ những
vị trí then chốt trong hệ thống nhà trường đại học và các cơ quan văn hóa. Họ
cũng mang về một quan niệm và kỹ thuật làm báo, làm xuất bản mới ở phương Tây
mà trước đây Nguyễn Văn Vĩnh, Nhất Linh… chỉ mới áp dụng bước đầu. Vì vậy ảnh
hưởng của lớp trí thức này có thể nhìn thấy qua hoạt động của các trường đại học
và của giới xuất bản, báo chí. Ngược lại, khắng định vai trò của đại học, báo
chí và xuất bản trong việc truyền bá tư tưởng phương Tây cũng chính là khẳng định
vai trò của lớp trí thức ấy.
Sau hơn 40 năm nhìn lại,
một cách tổng quát, có thể nói các lý thuyết văn học phương Tây đã để lại ảnh
hưởng không nhỏ trong đời sống tinh thần của xã hội miền Nam. Việc giới thiệu
và quảng bá các trào lưu tư tưởng này trong nhà trường đại học và trên sách báo
ở miền Nam những năm 1954-1975 diễn ra không đều nhưng là một hoạt động liên tục.
Trên thực tế không có một sự thiên lệch giữa tư tưởng phương Tây và tư tưởng
phương Đông trong chương trình đào tạo của các trường đại học. Trong các danh mục
xuất bản, văn học Âu Mỹ cũng không hoàn toàn áp đảo; mỗi nhà xuất bản có chủ
trương riêng về việc chọn đề tài phù hợp với khẩu vị độc giả của mình. Nhưng
liên kết lại các công trình xuất bản thành sách và công bố trên báo chí, thì có
thể hình dung một bức tranh vừa đa dạng, sinh động, vừa xô bồ, phức tạp về mặt
này.
Nhìn chung, ở miền Nam,
giáo dục ngày càng nghiêng về ảnh hưởng của nền giáo dục Mỹ, nhưng đời sống văn
học vẫn chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Tây Âu. Dĩ nhiên không phải tất cả trí
thức góp phần quảng bá tư tưởng Âu-Mỹ đều đã được đào tạo ở các nước phương
Tây, càng không phải tất cả trí thức ở đô thị miền Nam đều mặn nồng với văn học
Âu-Mỹ. Nhưng chính là môi trường văn hóa, giáo dục và ngôn ngữ phương Tây đã
góp phần quảng diễn ảnh hưởng của tư tưởng văn nghệ Âu-Mỹ. Một người như Nguyễn
Hiến Lê, chưa bao giờ đặt chân đến một xứ sở Âu-Mỹ, nhưng nhà trường Pháp-Việt
đã tạo cho ông tầm văn hóa để tiếp nhận và phổ biến tinh hoa văn học phương Tây
cho độc giả miền Nam.
Chúng ta sẽ nhận thấy một
điều thú vị với so sánh sau đây: một số nhà trí thức tài năng trước 1945 như Phạm
Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nhất Linh, Phan Khôi, Trương Tửu… đã có công lớn trong
việc giới thiệu tư tưởng xã hội và tư tưởng văn nghệ phương Tây, đồng thời trực
tiếp thực hành cách làm báo và làm xuất bản tân tiến; nhưng trong số họ hầu như
chưa có ai dịch thuật hay biên khảo một công trình bề thế về lý thuyết mỹ học
và văn học phương Tây. Trái lại, 30 năm sau, ở miền Nam, nhiều cuốn sách về triết
học, mỹ học Âu-Mỹ đã được dịch thuật, biên soạn, trong khi những công trình vận
dụng lý thuyết này vào nghiên cứu, phê bình lại xuất hiện hết sức dè dặt và
khiêm tốn.
Qua dịch thuật, nghiên cứu
của những học giả miền Nam, các lý thuyết văn học phương Tây vừa có
sức hấp dẫn, vừa bộc lộ những hạn chế lịch sử của nó. Tuy việc nghiên cứu ở đây
chỉ mới dừng lại ở bình diện lý thuyết và chưa có nhiều thành tựu về mặt vận dụng
vào thực tiễn sáng tác, phê bình văn học, nhưng nó có ý nghĩa đặt nền tảng cho
quá trình tiếp thu những khuynh hướng quan trọng của tư tưởng trong khoa học
nhân văn hiện đại mà mãi đến gần 20 năm sau khi chiến tranh kết thúc, giới
nghiên cứu Việt Nam mới khởi động trở lại.
Từ 1986 đến nay, những đổi
mới trong việc nghiên cứu, đánh giá sự tiếp nhận tư tưởng mỹ học và các lý thuyết
văn học phương Tây ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 cung cấp những bài học quý giá
có thể vận dụng vào việc ứng xử với những hiện tượng văn học trong hoàn cảnh xã
hội miền Nam giai đoạn 1954-1975, một hoàn cảnh đen tối và cực đoan về chính trị
mà ngày nay nhìn lại, trong điều kiện hiện đại hóa và hội nhập, cần rất nhiều
tinh thần khoan hòa trong đối thoại văn hóa.
2015-2016
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
-----------------------
Tài liệu tham khảo
1. Dolezel,
Lubomir., (1990), Occidental Poetics: tradition and progress,
University of Nebraska Press.
2. Fokkema D., Ibsch
E., (1995), Theories of Literature in the Twentieth Century, St.
Martin Press, New York.
3. Harland
R., (1999), Literary Theory from Plato to Barthes, Macmillan
Press Ltd, London.
4. Jaspers,
K., (2003), Ý niệm đại học, Hà Vũ Trọng và Mai Sơn dịch, Nxb. Hồng
Đức và Đại học Hoa Sen, TP Hồ Chí Minh.
5. La Khắc Hòa, Lộc
Phương Thủy, Huỳnh Như Phương (đồng chủ biên), (2015) Tiếp nhận tư
tưởng văn nghệ nước ngoài – kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại, Nxb. Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
6. Nguyễn Văn
Trung, (1967), Góp phần phê phán giáo dục và đại học, Nxb.
Trình Bầy, Sài Gòn.
7. Niculin
N., (2000), Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế, Nxb.
Giáo Dục, Hà Nội.
8. Thế
Nguyên, (1979), “Báo chí và xuất bản miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy”,
trong Văn hóa, văn nghệ miền Nam dưới chế độ
Mỹ ngụy, Tập II, Nxb. Văn Hóa, Hà Nội.
9. Trần Văn
Chánh, (2014), “Giáo dục miền Nam Việt Nam trên con đường xây dựng và
phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Huế, số 7-8.
10. Võ Phiến,
(2000), Văn học miền Nam – Tổng quan, Nxb. Văn Nghệ, California, in
lần thứ ba.
[1] Xem
Trần Văn Chánh (2014): “Giáo dục miền Nam Việt Nam trên con đường xây dựng và
phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Huế, số 7-8, tr.
13-14.
[2] Nguyễn
Lưu Viên (1966): Chính sách văn hóa giáo dục, Sài Gòn
(không đề Nxb), tr. 5-22.
[3] Xem
Vĩnh Đễ (1971): Tâm lý học 12 CD, Nxb Nam Giao, in lần thứ ba, Sài
Gòn.
[4] K.
Jaspers (2003): Ý niệm đại học, Hà Vũ Trọng và Mai Sơn dịch, NXB Hồng
Đức và Đại học Hoa Sen, TP Hồ Chí Minh, tr. 5. Bài viết “Những mạch sống tinh
thần của đại học” của Lê Tôn Nghiêm in trong sách này vốn là bài giới thiệu tác
phẩm Ý niệm đại học của K. Jaspers đã đăng trên tạp chí Tư
Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh số 01, bộ mới, chủ đề “Trước thềm đại
học”, tháng 11-1974, tr. 183-189.
-----------------------
Cảm nghĩ của chủ blog :
Tác giả tổng quan một
hành trình sinh hoạt tinh thần của xã hội Miền Nam mà hoàn toàn không nhắc tới
bối cảnh chiến tranh triền miên, khói lửa ngút trời, khăn tang trùng điệp thì e
rằng có sự thiếu sót.
No comments:
Post a Comment