Tony
Judt
Phan
Trinh dịch
Tháng
3 28, 2013
Giới thiệu của người dịch:
1. Có một thời, không ít trí thức Tây Âu say mê cộng sản như nghiện
thuốc phiện, nói theo cách của Raymond Aron (Marx: Tôn giáo là thuốc
phiện mê dân. Aron: Chủ nghĩa Marx là thuốc phiện mê hoặc trí thức.) Nghiện
đến mụ mị, họ còn cho rằng ai theo cộng sản như họ mới tiến bộ, còn ai
chống cộng là đi ngược dòng lịch sử.
Nhưng đến thập niên 1970, 1980, thì “ngược” lại hóa xuôi trong một
cuộc bể dâu làm suy tàn danh tiếng của cả những trí thức hàng đầu.
2. Bàn về trí thức theo cộng sản, có ý kiến cho rằng “Đã thông thái
và cộng sản thì không lương thiện”*. Đây là một cách nhìn, có lẽ đúc kết từ
những kinh nghiệm đau đớn và phản ảnh một thực tế dữ tợn khó phủ nhận, vẫn diễn
ra hàng ngày. Nhưng cũng có cách nhìn khác. Mượn lời Karl Popper, bà Aung San
Suu Kyi, lãnh tụ đối lập Miến Điện, cho rằng “Không có cái ác… chỉ có sự ngu
dốt mà thôi.”** Nói cách khác, ngu dốt đã sinh ra cái ác và sự bất lương.
Có lẽ, đó là một kết luận bao dung, không phán xét đạo đức, tin vào
tính bản thiện của con người, tin vào khả năng thắp sáng của sự thật, có
thể dùng làm nền tảng của đối thoại thay vì loại trừ. Và Aung San Suu Kyi đã
làm điều bà tin trong cuộc đấu tranh cho dân chủ đang diễn ra.
Nhưng cũng có thể cắc cớ hỏi lại rằng: Hay vì không sống ở Việt Nam
thời cộng sản nên Aung San Suu Kyi tin rằng “không có cái ác” chăng?
Dù sao, thiện ác là đề tài dễ gây tranh cãi. Ai cũng có thể chọn
cách nhìn này hay cách nhìn kia, đứng giữa cả hai, phủ nhận cả hai, hoặc đứng
ngoài, miễn bàn… Nhưng có lẽ, điều đáng nói hơn là sau khi tỉnh ngộ, người hiểu
biết và có lương tri sẽ đứng đâu, làm gì.
Như được mô tả trong bài này, sự thật đã đẩy lùi dối trá và một thế
hệ trí thức mới ở Tây Âu đã đứng về phía quyền con người. 40 năm sau,
điều này dường như cũng đang diễn ra tại Việt Nam.
3. Cuộc biến cải lớn lao, ván đặt cược trắng tay của trí thức, và quyền
con người như một ngọn cờ mới là nội dung đoạn văn dưới đây của sử gia Tony
Judt ***, trích từ cuốn Post War -
A History of Europe Since 1945 (Hậu Chiến – Một cách nhìn về Lịch sử Châu
Âu từ 1945), do Nhà Xuất bản Penguine Books phát hành năm 2005.
Đoạn trích dịch là phần đầu Chương 18, ‘Power of the Powerless’ (Quyền lực của Không Quyền lực) dựa trên tiểu luận
cùng tên của Vaclav Havel. Chương này phần đầu nói về trí thức Tây Âu, và phần
sau nói về trí thức Đông Âu trước khi cộng sản sụp đổ năm 1989. Tựa và tiêu đề
các đoạn là của người dịch.
—
* Xem “Góp phần ‘giải mã’ một thế hệ dấn thân” của
Hà Sĩ Phu, đăng trên trang mạng Bauxite Việt Nam, ngày 25/2/2013.
** “There’s no evil… but stupidity”. Xem Aung San Suu Kyi – The
Voice of Hope, của Alan Clements và Aung San Suu Kyi, NXB Penguine Books,
1997, trang 130 và 36.
*** Tony Judt sinh năm 1948 tại Luân Đôn. Ông học tại King’s
College, Cambridge, Anh Quốc, và École Normale Supérieure tại Paris. Ông dạy
học tại Cambridge, Oxford, Berkeley và New York University. Năm 1995, ông sáng
lập và điều hành Viện Remarque chuyên nghiên cứu Châu Âu. Ông là tác giả của
hàng chục đầu sách, là cộng tác viên thường xuyên của The New York Review of
Books, The New York Times (NYT). Cuốn Post War, dài trên 900
trang, lọt vào chung kết Giải Pulitzer, là một trong 10 tác phẩm hay nhất năm
2005 của NYT, đoạt giải Arthur Ross Book Award sách hay nhất về lịch sử quốc tế
năm 2006. Tony Judt mất năm 2010 tại New York.
NYT có câu nhận xét về Post War sau đây: “… đồ sộ, đầy học
thuật và thật chi tiết, mô tả Châu Âu hồi phục từ đống đổ nát Thế chiến thứ
Hai, tác phầm của Judt vừa cho thấy toàn cảnh cả một lục địa, vừa cho bùng nổ
những kiến giải bất ngờ gần như trên từng trang giấy.”
___________________
Sức
nặng của một cuốn sách đúng lúc
Nếu
muốn tìm một thời điểm có tính biểu tượng, đánh dấu sự chuyển đổi của cục diện
Châu Âu, một bản lề dựa trên đó cái nhìn của Châu Âu hậu chiến về chính mình
xoay chiều, thì đó là ngày 28 tháng 12 năm 1973, tại Paris, ngày tác phẩm Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago) của
Alexandr Solzhenitsyn được xuất bản lần đầu tiên tại Phương Tây. Điểm bản dịch
tiếng Anh của cuốn sách, nhà phê bình W. L. Webb viết trên tờ Guardian
rằng: “Sống thời nay mà không biết tác phẩm này thì có nguy cơ trở thành một
thứ thằng khờ lịch sử, sẽ bỏ sót một phần rất quan trọng của ý thức thời đại.”
Tuy nhiên, như Solzhenitsyn công nhận, điều nghịch lý nằm ở chỗ thông điệp của
cuốn sách – rằng “Chủ nghĩa xã hội như đang tồn tại trên thực tế” chỉ là một
trò dối trá man rợ, một chế độ độc tài toàn trị được xây dựng trên nền tảng lao
động khổ sai và thủ tiêu hàng loạt – lại không có gì mới.
Solzhenitsyn
đã viết về đề tài này trước đó. Vô số nạn nhân, người sống sót, nhà quan sát,
các học giả cũng đã viết về đề tài này trước đó. Quần đảo ngục tù tuy có
bổ sung thêm cả trăm trang chi tiết và dữ liệu cho các tác phẩm trước, nhưng về
khả năng đánh động lương tâm và cảm xúc người đọc thì phải nói tác phẩm này
không hơn được cuốn tự thuật Đường vào tâm bão (Journey into the
Whirlwind) của Evgenia Ginzburg, xuất bản năm 1967; hoặc cuốn hồi ký của
Margarete Buber Neumann về kinh nghiệm bản thân trong cả hai ngục tù Xô-viết
lẫn Đức Quốc xã, xuất bản lần đầu năm 1957; hoặc cuốn sách của Wolfgang
Leonhard giải mã về niềm tin đặt sai chỗ của mình, ra mắt năm 1955; hoặc cả
những cuốn góp phần đánh đổ huyền thoại Xô-viết sớm hơn nữa của Victor Serge và
Boris Souvarine.[1]
Nhưng
điều quan trọng hơn cả là Quần đảo ngục tù đã ra đời đúng lúc. Những trí
thức phê phán chủ nghĩa cộng sản chẳng bao giờ thiếu; tuy nhiên, ảnh hưởng của
họ trong nhiều thập niên lại bị lu mờ đi vì niềm hy vọng hão huyền, nhưng tràn
lan ở Tây Âu (và cả Đông Âu thập niên 1960), của những kẻ cố tìm cho ra vài tia
hy vọng trong đám mây đen có tên chủ nghĩa xã hội nhà nước đang bao phủ phần
lớn lục địa Châu Âu, sau khi ra đời tại Nga năm 1917. “Chống cộng sản”, bất kể
vì động cơ thật hay được gán ghép, dễ dàng bị xem là hành vi thách thức cả lịch
sử lẫn tiến bộ, là bỏ qua “bức tranh tổng thể”, là cố tình chối bỏ sự gần gũi
thiết yếu gắn kết nhà nước phúc lợi dân chủ (dù thiếu sót đến mấy) với chế độ
tập thể của chủ nghĩa cộng sản (dù vấy bẩn đến đâu).
Đó
là lý do khiến những trí thức chống lại hiện trạng hậu chiến bị đẩy ra ngoài
lề. Những chủ trương như của Hayek và một số trí thức tương tự – rằng các kế
hoạch nhằm kìm hãm kinh tế thị trường, nhân danh phúc lợi cho mọi người, dù có
mục tiêu tốt vẫn không thể mang lại hiệu quả kinh tế, và tệ hơn nữa, nó
còn là bước đầu trên con đường dẫn tới nô lệ – bị xem là chủ trương sai lầm,
là xé nát tấm bản đồ đưa đến tiến bộ của thế kỷ 20. Ngay những người chống độc
tài cộng sản như Arthur Koestler, Raymond Aron, Albert Camus hoặc Isaiah Berlin
cũng bị xem thường. Họ cho thấy cải cách dân chủ xã hội vì phúc lợi của mọi
người không đồng nghĩa với độc tài đảng trị nhân danh tập thể, nhưng chủ trương
của họ lại bị nhiều nhà phê bình, được gọi là “tiến bộ” lúc bấy giờ, xem như
một thứ tiếng vọng nối dài phục vụ quyền lợi của phe chống cộng trong Chiến
tranh Lạnh.
Hậu
quả là họ đụng phải sự miễn cưỡng tràn lan, đặc biệt là của thế hệ 1960, thế hệ
những kẻ không muốn từ bỏ thứ giáo lý cấp tiến đã theo đuổi bấy lâu nay. Quả
thực, thấy được đại họa do Stalin gây ra và nhạo cười ông là một chuyện – dù
sao thì Stalin cũng đã chết từ lâu và còn bị các thuộc hạ kế vị mình lên án –
nhưng nhận ra rằng sai lầm không nằm ở cá nhân con người mà là lỗi hệ thống là
một việc hoàn toàn khác. Xa hơn nữa, nếu ai nói rằng tội ác và các lầm lạc do
đường lối Lenin gây ra xuất phát từ một thứ chủ nghĩa không tưởng chứ
không gì khác, thì họ sẽ bị xem như kẻ dám đặt mìn phá hoại rường cột chống đỡ
nền chính trị hiện đại. Nhà sử học người Anh, E.O. Thompson, người được xem như
thần tượng của thế hệ trẻ theo “chủ nghĩa Marx hậu cộng sản”, đã lên giọng phê
phán Leszek Kolakowski (sau khi Kolakowsi phát hành một tác phẩm lên án chủ
nghĩa cộng sản Xô-viết nhân những biến cố năm 1968) như sau: “Sự bất mãn của
anh là mối đe dọa cho chính nghĩa xã hội chủ nghĩa của chúng tôi!”.
Tuy
nhiên, vào năm 1973, niềm tin ấy đã bị lung lay nghiêm trọng, không chỉ vì các
trí thức lên tiếng phê phán nó, mà còn vì các sự kiện thực tế nữa. Khi Quần
đảo ngục tù được phát hành bằng tiếng Pháp, nhật báo cộng sản L’Humanité
đã bài bác nó, họ nhắc nhở độc giả rằng “mọi người” đều đã biết mọi sự về
Stalin rồi, vì vậy bất cứ ai muốn moi móc xào nấu lại những chuyện như thế
thì chỉ có thể là những kẻ bị kích động theo “chủ nghĩa chống Xô-viết” mà thôi.
Nhưng, lời tố cáo “chủ nghĩa chống Xô-viết” vào lúc đó cũng không còn nặng ký
nữa. Sau vụ Liên Xô xâm lăng Tiệp Khắc chiếm đóng Praha [1968] và đàn áp kéo
dài, sau khi thông tin lọt ra từ Trung Quốc vén màn sự thật về Đại Cách mạng
Văn hóa, thì lời tố cáo cộng sản từ gốc lên ngọn của Solzhenitsyn bỗng nghe rất
thật – ngay cả, và nhất là, cho những người vốn có cảm tình với cộng sản.
Di
sản đổ vỡ
Càng
ngày người ta càng thấy rõ chủ nghĩa cộng sản đã làm hư hoại và đánh mất di sản
cấp tiến của mình. Và nó tiếp tục đánh mất mình khi nạn diệt chủng tại
Kampuchea và bi kịch của “thuyền nhân” Việt Nam được biết đến rộng rãi.[2] Trí thức Tây Âu, con số này rất nhiều,
vốn cho rằng Mỹ phải chịu trách nhiệm phần lớn về những tai họa xảy ra tại Việt
Nam và Kampuchea. Tinh thần chống Mỹ của họ còn được tiếp thêm nhiên liệu sau
khi xảy ra cái chết của Salvador Allende tại Chile do Mỹ giật dây, chỉ ba tháng
trước khi xuất bản cuốn Quần đảo ngục tù. Nhưng ngay cả lớp trí thức
đông đảo này cũng ngày càng tỏ ra e ngại khi phải đưa ra kết luận, thay vì ung
dung phát biểu như trước đây, rằng phe chủ nghĩa xã hội đạo đức hơn phe kia.
Đúng là chủ nghĩa đế quốc của Mỹ rất tệ – nhưng phía bên kia còn tệ hơn, thậm
chí tệ hơn rất nhiều.
Vào
lúc này, quan điểm “cấp tiến” quen thuộc khẳng định rằng mọi công kích nhắm vào
chủ nghĩa cộng sản là đe dọa gián tiếp nhắm vào tất cả mọi nỗ lực cải
thiện xã hội – quan điểm này cho rằng chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, dân
chủ xã hội, quốc hữu hóa, quy hoạch tập trung, và những cải cách xã hội cấp
tiến đều là thành phần của một dự án chính trị chung – bắt đầu trở nên tự mâu
thuẫn. Lý luận kiểu trên thì cũng như nói rằng nếu Lenin và đồ đệ của mình đầu
độc nguồn nước công bằng xã hội thì tất cả mọi người đều bị ngộ độc.
Thực tế lịch sử của thế kỷ 20 cho thấy nhà nước bắt đầu trở thành một vấn đề
nhiều hơn là một giải pháp, và không chỉ vì lý do kinh tế. Những gì được khởi
đầu bằng quy hoạch tập trung phũ phàng thay lại kết thúc bằng giết người tập
trung.
Dĩ
nhiên, đó là một kết luận nghe rất “trí thức”, nhưng sự thoái trào của nhà nước
được giới trí thức cảm nhận gần như lập tức. Cũng hợp lý thôi vì chính giới trí
thức chứ không ai khác là giới đã hồ hởi cổ vũ cho nhà nước, cho việc cải tổ xã
hội từ trên xuống. Như nhận xét của Jiri Grusa, một nhà văn Tiệp Khắc, viết năm
1984: “Chính chúng tôi [những người cầm bút] đã tôn vinh nhà nước của thời hiện
đại.” Với bản chất của mình, như nhận xét của Ignazio Silone [một trí thức Ý có
ảnh hưởng], các chế độ độc tài hiện đại rất cần giới trí thức hợp tác. Cũng tự
nhiên thôi khi sự thất vọng của giới trí thức Châu Âu với đại tự sự về tiến bộ
đã châm ngòi cho cuộc sụp đổ lớn lao tiếp theo; và cũng tự nhiên thôi khi sự
bất mãn này được thấy rõ nhất tại Paris, nơi mà đại tự sự kia đã hình thành, và
mang bộ mặt vừa trí thức vừa chính trị, hai thế kỷ trước đó.
Pháp
và thế hệ thoát cộng
Nước
Pháp vào thập niên 1970, 1980 đã không còn là “Thấu kính tạo lửa của Văn minh
Tây Phương” như Arthur Koestler mô tả nữa, nhưng các nhà tư tưởng Pháp vẫn nồng
nhiệt quan tâm tới những vấn đề mang tính toàn cầu. Trong khi đó, giới cầm bút
và bình luận tại Tây Ban Nha, Tây Đức và Ý vào những năm này phần lớn chú ý tới
những vấn đề nội bộ nước mình, mặc dù những đe dọa có tính khủng bố mà họ quan
tâm cũng là dấu hiệu suy tàn của khuynh hướng không tưởng cực đoan. Còn giới
trí thức Anh, vốn chưa khi nào có cảm tình sâu với chủ nghĩa cộng sản, phần lớn
đều thờ ơ khi nó thoái trào và đều giữ khoảng cách với những gì đang diễn ra
tại lục địa Châu Âu. Tại Pháp thì ngược lại, nhiều thành phần trí thức tại đây
quan tâm dài lâu tới cộng sản. Trong khi chủ trương chống cộng ngày càng mạnh
lên trong các cuộc thảo luận công cộng tại Pháp, Đảng Cộng sản lại ngày càng
mất phiếu bầu và ảnh hưởng, điều này cho thấy cuộc suy thoái còn được châm thêm
nhiên liệu bằng những ký ức và thực tế ngay trên sân nhà. Một thế hệ trí thức
mới tại Pháp đã thoát khỏi chủ nghĩa Marx với sự sốt sắng đáng kinh ngạc, đôi
khi họ như bị thúc đẩy từ bỏ những dan díu của chính mình trước đó một cách vội
vã đến bất thường.
Nhưng,
khi lên án sự biến dạng của chủ nghĩa không tưởng cực đoan, những “triết gia
mới” trẻ tuổi tại Paris giữa thập niên 1970, như André Glucksman hoặc
Bernard-Henri Lévy, nói chung lại cũng không nói được điều gì mới mẻ. Tác phẩm
của Glucksmann Les Maitres Penseurs [Những bậc thày tư tưởng] phát hành
vào tháng 3 năm 1977 và được ca tụng khắp thế giới, nhưng thực ra cuốn này
chẳng có mấy điều mà Raymond Aron đã không nói hay hơn trong tác phẩm Opium
des Intellectuels [Thuốc phiện của giới trí thức] ra đời 22 năm trước
đó. Cũng không có gì trong tác phẩm Barbarie à Visage Humain [Man rợ với
khuôn mặt người] của Lévy, ra đời hai tháng sau cuốn của Glucksmann, mà độc giả
Pháp không tìm thấy trong cuốn L’Homme révolté [Kẻ nổi loạn] của Albert
Camus. Trớ trêu thay, nếu tác phẩm của Camus bị Jean-Paul Sartre bác bỏ thẳng
tay khi nó ra đời năm 1951 thì Lévy và Glucksmann lại trở thành những tác giả
ngôi sao có sách bán chạy nhất. Quả là thời thế đã khác.
Jean-Paul
Sartre
Tính
chất khốc liệt đến chết người của cuộc bể dâu tri thức này thật rõ ràng. Bề
ngoài, những biến động này như nhắm vào chủ nghĩa Marx, một ngã rẽ tai hại
trong hành trình tư tưởng Phương Tây, nhưng phần lớn hỏa lực của nó trước hết
lại nhắm vào những nhân vật dẫn đầu sinh hoạt trí thức hậu chiến, ở Pháp và các
nước khác, những người đã đứng nhìn lịch sử từ trên cao, phấn khích tung hô kẻ
thắng trận, trong khi lại ra vẻ lịch sự đảo mắt chỗ khác, không nhìn cho rõ
những nạn nhân. Bản thân Jean-Paul Sartre, người trí thức nổi tiếng nhất trong
số họ, cũng bị gạt ra khỏi vị trí được ưa chuộng trong những năm này, kể cả
trước khi ông chết năm 1980, di sản sáng tạo của ông bị ố bẩn bởi những lời
biện hộ cho cộng sản Xô-viết, và sau này là chủ nghĩa Mao.[3]
“Cách
mạng Pháp đã chết!”
Cuộc
“biến đổi khí hậu” trí thức này tại Paris còn được mở rộng hơn nữa, chứ không
dừng lại ở việc tách bạch phải trái các thế hệ trí thức dấn thân. Năm 1978, tác
phẩm The Logic of Scientific Discovery [Logic khám phá khoa học] của
Karl Popper lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Pháp, đã khởi đầu cho thời kỳ
hấp thu đều đặn vào dòng chính tư tưởng Pháp toàn bộ triết học và khoa học xã
hội từ Anh-Mỹ, mà trong vài chục năm trước đó trí thức Pháp gần như không hề
biết đến. Cũng trong năm này, nhà sử học François Furet cho xuất bản tác phẩm
có tính đột phá Penser la Révolution Française [Nghĩ về Cách mạng
Pháp], trong đó ông phủ nhận toàn bộ “giáo lý cách mạng”, mà người Pháp trong
nhiều thập niên đã được dạy để hiểu về đất nước và quá khứ của mình.
Trong
bộ “Giáo lý” này, như Furet mổ xẻ, Cách mạng Pháp đã là khoảnh khắc tiêu biểu
của thời hiện đại: Đó là cuộc xung đột khơi mào cho việc chia cắt Pháp thành
các trường phái chính trị đối lập giữa Tả và Hữu, được xác định một cách hình
thức dựa trên thành phần giai cấp của người trong phe nổi dậy. Câu chuyện này
được xây dựng trên hai trụ cột đồng dạng là sự lạc quan thái quá đầu thế kỷ 19
và tầm nhìn Mác-xít về cải tổ xã hội cấp tiến. Theo cách nhìn của Furet, hai
trụ cột đó đến nay đã hoàn toàn sụp đổ – nhất là vì cộng sản Xô-viết, người
thừa kế ngai vàng cách mạng trong câu chuyện ngụ ngôn về cuộc cải tổ cấp tiến
tốt lành này, đã đầu độc ngược toàn bộ di sản của mình. Cách mạng Pháp, dùng
đúng chữ của Furet, thực ra đã “chết”.
Tội
ác hiện nguyên hình
Luận
văn của Furet có ảnh hưởng chính trị rất lớn, như ông dự đoán. Sự thất bại của
chủ nghĩa Marx như một đường lối chính trị là một việc – tuy luôn có thể đổ lỗi
cho những biến động ngoài ý muốn hay hoàn cảnh khách quan – nhưng vấn đề nằm ở
chỗ nếu chủ nghĩa Marx không còn là câu chuyện lớn, là đại tự sự – có nghĩa là
nếu lý tính và nhu cầu tất yếu của xã hội không phải là những động lực thúc đẩy
lịch sử nữa – thì mọi tội ác của Stalin, mọi sinh mạng bị hủy hoại, mọi tài
nguyên bị phí phạm trong công cuộc thay đổi xã hội dưới sự chỉ đạo của nhà
nước, mọi sai lầm và thất bại của những cuộc thí nghiệm cấp tiến mà loài người
trong thế kỷ 20 trải qua, để xây dựng xã hội không tưởng bằng đường lối độc
tài, sẽ không còn có thể được biện minh một cách “biện chứng” như những bước
sai lầm nhỏ trên con đường đúng được nữa. Chúng hiện nguyên hình là những mất
mát, phí phạm, thất bại và tội ác, y như những gì các nhà phê bình đã từng cảnh
báo.
Furet
và các trí thức trẻ đương thời bác bỏ thói quen viện dẫn lịch sử để biện minh,
vốn là sắc thái riêng của giới trí thức dấn thân Châu Âu từ đầu thập niên 1930.
Họ cho rằng không có một “đại tự sự” nào chi phối, điều động những biến chuyển
trong hành vi của loài người, và vì thế không thể biện minh cho các chính sách
hay việc làm của nhà nước gây khổ đau thật hôm nay, nhân danh những lợi ích
tưởng tượng ngày mai. Đập trứng thì làm được món trứng tráng ngon lành, nhưng
không ai có thể xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn bằng cách đập nát con người.
Nhìn lại thì có thể thấy đây là một kết cuộc nhạt nhẽo, đầu voi đuôi chuột, sau
mấy chục năm đấu đá lý thuyết và chính trị căng thẳng. Nhưng, đó cũng là bằng
chứng cho thấy thời đại đã thay đổi đến mức nào.
Một
thời đã qua
Năm
1969, phim Ma Nuit Chez Maud [Đêm tôi ở nhà Maud] của Eric Rohmer được
trình chiếu, kể câu chuyện có tính ngụ ngôn về một triết gia cộng sản và một
đồng nghiệp Công giáo tranh cãi nhiều giờ quanh những ý kiến mâu thuẫn của
Pascal về Thượng đế và của lý luận Mác-xít về lịch sử. Giờ nhìn lại có thể thấy
rằng điều đáng ngạc nhiên nhất không phải là những cuộc tranh cãi kia, vốn hết
sức quen thuộc với bất cứ ai lớn tuổi còn nhớ về thập niên 1960 tại Châu Âu, mà
là sự nghiêm túc theo dõi cuộc tranh cãi, không chỉ của nhân vật trong phim mà
còn của hàng triệu người xem phim. Mười năm sau, đề tài này, nếu không kể cả bộ
phim, đã trở thành cổ lỗ sĩ. Việc nhân danh lịch sử để biện hộ cho những chọn
lựa chính trị không thể chấp nhận được đã trở nên một việc làm ngây thơ về mặt
đạo đức, và thậm chí còn ác độc nữa. Như Camus đã nhận xét từ nhiều năm trước
“Trách nhiệm với lịch sử đã khiến con người đánh mất trách nhiệm với đồng
loại”.[4]
Đi
về đâu?
Sự
hụt hẫng trước vai trò của “lịch sử” (và của lịch sử nói chung) mở màn cho một
thập niên tệ hại đối với giới trí thức Tây Âu. Họ hiểu ra, và chẳng lấy gì làm
vui, rằng sự tan vỡ những đại tự sự và các kế hoạch lớn lao của lịch sử sẽ là
thảm họa cho tầng lớp có trách nhiệm chính trong việc phổ biến chúng bằng tài
hùng biện của mình. Không những thế, giờ đây họ còn trở thành đối tượng của sự
ghẻ lạnh, nhục mạ, và con số này dường như khá nhiều. Tháng 9, 1986, trong một
lần trò chuyện riêng tiết lộ nhiều thông tin với một nhà báo Pháp, ông Pierre
Bourdier, nhà xã hội học Pháp, đã tỏ lòng tiếc thương cho tình trạng ngã ngựa
của giới trí thức dấn thân. Ông nói: “Với tôi, nếu còn một chính nghĩa lớn lao
nào sót lại hôm nay, thì đó chính là việc bảo vệ những người trí thức.”[5]
Sự
hiến mình của giới trí thức trên bàn thờ lịch sử trước đây đã được Isaiah Berlin
mô tả như “một hành vi bi tráng kiểu người Đức, khi chọn lựa vác thập giá đạo
đức trên lưng”. Nhận xét này hơi nặng với người Đức, vốn không phải là dân tộc
duy nhất hạ mình hiến thân trên bàn thờ được gọi là quy luật tất yếu của lịch
sử, mặc dù quả thật ý tưởng này có gốc rễ từ triết học lãng mạn Đức. Nhưng nhận
xét này đã cho thấy một khoảng trống đang xuất hiện trong tư duy chính trị tại
Châu Âu, đó là: nếu không còn những “chính nghĩa vĩ đại” nào nữa; nếu di sản
cấp tiến đã gẫy cánh, đỗ vỡ; nếu không còn có thể vay mượn lịch sử, hoặc quy
luật tất yếu của lịch sử, để biện hộ cho một hành động, một chính sách hay một
dự án, thì người ta phải căn cứ vào đâu để biết đâu là vấn đề lớn của thời đại
mình đang sống?
Câu
hỏi này không là vấn đề đối với những người cấp tiến theo trường phái Thatcher
[thủ tướng Anh thập niên 1980], vốn xem chính sách công là cánh tay nối dài của
quyền lợi riêng, còn thị trường là bộ điều chỉnh vừa cần thiết vừa hữu hiệu cho
các giá trị và thành quả. Câu hỏi này cũng không làm khó giới bảo thủ Châu Âu
thời kỳ này, vì với họ thước đo tốt xấu trong cuộc sống con người được cắm neo
trong các giá trị tôn giáo và quy ước xã hội – họ cũng bị trầy trụa đôi chút,
nhưng không bị trận sóng thần văn hóa của thập niên 1960 cuốn phăng đi. Chỉ có
những người cánh Tả cấp tiến, vốn là lực lượng chủ chốt trong sinh hoạt
chính trị và văn hóa Châu Âu, mới là đối tượng bức bách, cần gấp một kịch bản
khác.
Ngọn
cờ mới
Điều
họ tìm thấy, đáng ngạc nhiên thay, là một ngôn ngữ chính trị mới, hay nói đúng hơn
là một ngôn ngữ rất cũ nay được làm mới lại.
Đó là ngôn ngữ dân quyền, nhân quyền, các quyền tự do, là điều được viết trong
tất cả mọi bộ hiến pháp tại Châu Âu, kể cả hiến pháp các nước Dân chủ Nhân dân
trong khối cộng sản. Dân quyền và nhân quyền, như một lý tưởng hoặc nội
dung chính trị, đã không được xem như một loại thời trang phù hợp tại Châu Âu
trong rất nhiều năm trời. Ngay sau Thế chiến thứ Nhất, các loại quyền, nhất là
quyền tự quyết, đã giữ một vai trò cốt lõi trong mọi thương lượng về giải quyết
hậu quả chiến tranh, hầu hết mọi quốc gia thành viên tại Hội nghị Hòa bình
Versailles đã khẳng định quyền của mình một cách dứt khoát và mạnh mẽ khi đưa
ra yêu sách với các đại cường. Nhưng đây là quyền của những tập thể, của các
khối quốc gia, của các dân tộc, của các nhóm thiểu số.
Thêm
vào đó, lịch sử cho thấy việc thực thi các quyền của tập thể này đã diễn ra
không mấy êm đẹp. Khi có xung đột về quyền giữa hai hay nhiều hơn các cộng đồng
sắc tộc hoặc tôn giáo, thường là về tranh chấp đất đai lãnh thổ, thì đáng buồn
thay, phương pháp ưu tiên được dùng để giải quyết xung đột lại không phải là
luật pháp, mà là vũ lực. Quyền của các sắc dân thiểu số đã không được bảo vệ
trong một quốc gia, tương tự như vậy, quyền của các nước nhược tiểu đã không
được bảo vệ trước yêu sách của các nước láng giềng hùng mạnh hơn. Những nước
thắng trận khi Thế chiến thứ Hai kết thúc năm 1945, rút kinh nghiệm từ những
hứa hẹn không thành của Hội nghị Hòa bình Versailles [1919], đã đi đến kết
luận, như đã thấy, rằng quyền lợi chung sẽ được thực hiện bằng một giải
pháp hiệu quả hơn, dù đau đớn hơn, là sắp xếp lại lãnh thổ (sau này được gọi là
thanh lọc chủng tộc). Còn với những người mất tổ quốc, họ sẽ không còn bị xem
như một khối dị vật về pháp lý trong cộng đồng các quốc gia hay dân tộc, mà sẽ
được xem như những cá nhân bị ngược đãi, những nạn nhân phải chịu đựng bất
công.
Những
thảo luận về quyền sau năm 1945, vì vậy, đã tập trung nói về quyền của cá nhân.
Đây cũng là một bài học khác của chiến tranh. Mặc dù con người, nam lẫn nữ, bị
đàn áp vì một nhân dạng chung (vì là dân Do Thái, dân du mục, dân Ba Lan…) họ
đã phải chịu đau khổ như những cá nhân riêng lẻ. Chính những con người cá nhân
này và quyền cá nhân của họ là đối tượng để tổ chức Liên Hiệp Quốc vừa thành
lập đứng ra bảo vệ. Những Công ước về Nhân quyền, về Nạn Diệt chủng hoặc về
Quyền Xã hội, Quyền Kinh tế được đưa vào luật quốc tế và hiệp ước quốc tế đã có
tác động rất lớn đối với cảm nhận của công chúng: Những quyền này kết hợp những
quyền tự do cá nhân được cổ vũ tại Anh, Mỹ trong thế kỷ 18 với những chủ trương
vào giữa thế kỷ 20 về nhiệm vụ của nhà nước phải bảo đảm cho dân được hưởng các
quyền ngày càng nhiều, từ lớn đến nhỏ, từ quyền được sống đến “quyền” được nghe
“quảng cáo đúng sự thật”, và hơn thế nữa.
Helsinski
và quyền con người
Một
sự kiện giúp đưa những ngôn ngữ pháp lý về quyền cá nhân vừa kể trở thành một
thực tế chính trị – vào lúc chủ nghĩa Marx đang trên đà suy thoái – là Hội nghị
về An ninh và Hợp tác Châu Âu tại Helsinski năm 1973, cùng năm tác phẩm Quần
đảo ngục tù phát hành tại Paris. Cho tới thời điểm đó thì các cuộc thảo
luận về quyền cá nhân không được coi trọng trong hàng ngũ cánh tả Châu Âu, phản
ánh phần nào ảnh hưởng quan điểm đình đám của Marx cho rằng “cái được gọi là
quyền con người” chỉ là thứ giá trị đầy ích kỷ và rất “tư sản”. Trong những
nhóm cấp tiến thì những cụm từ như “quyền tự do’, “tự do” hoặc “quyền hạn” và
những giá trị khác liên quan đến “con người nói chung” chỉ được đề cập tới một
cách nghiêm túc khi đi kèm với những tính từ bổ nghĩa đi kèm như “tư sản”, “vô
sản” hoặc “xã hội chủ nghĩa”.
Vì
vậy mà vào năm 1969, một nhóm các nhà trí thức cánh tả của Parti Socialiste
Unifié [Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất] tại Pháp đã chỉ trích đảng của mình
(lúc đó do Michel Rocard và Pierre Mendes-France lãnh đạo) vì đã ủng hộ thành
phần cải cách tại Praha [tạo nên Mùa Xuân Praha 1968 tại Tiệp Khắc]. Họ cho
rằng những người cải cách ở Praha đã “tự nguyện trở thành nạn nhân của những lý
tưởng tiểu tư sản (nhân bản, tự do, công bằng, tiến bộ, bầu cử tự do và kín,
v.v.).” Đây không phải là trường hợp riêng lẻ. Vào thập niên 1960, rất nhiều
nhà bình luận thiên tả tại Phương Tây, dù khuynh hướng chính trị trong nhiều
trường hợp là khá ôn hòa, vẫn thường tránh dùng các ý niệm như “quyền” hoặc “tự
do” vì sợ bị cho là ngây thơ chính trị. Trong khi đó thì ở Đông Âu, các nhà cải
cách cộng sản và những người ủng hộ họ cũng tránh dùng những từ ngữ như vậy,
nhưng vì một lý do khác, vì ý nghĩa của những cụm từ này đã bị bóp méo trong
ngôn ngữ chính thống của nhà nước và không còn giá trị nữa.
Nhưng
từ giữa thập niên 1970, điều trở nên ngày càng phổ biến là các diễn văn và luận
văn thuộc mọi khuynh hướng chính trị tại Tây Âu đã không còn ngần ngại nói tới
“quyền con người” và “quyền cá nhân”. Như nhận định của một quan sát viên Ý đưa
ra vào năm 1977, thì ý tưởng và lý tưởng về quyền tự do “không bị cắt xén” đã
được cánh Tả đưa ra thảo luận rất cởi mở mà “không bị đánh tráo khái niệm,
không mang tính tuyên truyền” lầu đầu tiên kể từ sau chiến tranh.[6] Tuy nhiên, những thảo luận này vẫn chưa
trở thành một thực tế chính trị ngay lập tức – vì trải qua hầu hết thập niên
1980, các Đảng Xã hội Chủ nghĩa và Lao động tại Tây Âu đã chao đảo không gượng
lại được, trong nhiều trường hợp họ phải loay hoay vay mượn công khai những chủ
trương, chính sách của các đảng đối thủ để che bớt sự trần trụi của mình. Tuy
vậy, sự cởi mở vừa có, cùng với từ vựng của các quyền con người và quyền tự do,
đã cho phép các học giả và giới trí thức Tây Âu tiếp cận với ngôn ngữ đối lập
chính trị đang biến chuyển mạnh tại Đông Âu, và cho họ một công cụ truyền thông
để vượt qua rào cản ngăn cách đôi bên. Điều này đã diễn ra rất đúng lúc, vì
chính ở phía đông của Bức màn Sắt mới là nơi đang diễn ra những thay đổi thực
sự mới mẻ và lớn lao.
Nguồn: Tony Judt, Post War - A History
of Europe Since 1945, Penguine Books, 2005
Bản
tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
[1] Evgenia Ginzburg, Journey
into the Whirwind (Harcourt, 1967); Margarete Buber-Neumann, Von Potsdam
nach Moskau: Stationen eines Irrweges (Stuttgart: Deutsche Verlags-Anstalt,
1957); Wolfgang Leonhard, Child of the Revolution (Pathfinder Press,
1979), xuất bản lần đầu năm 1955 với tên Die Revolution entlässt ihre Kinder;
Victor Serge, Mémoires d’un révolunionnaire (Paris, 1951); Boris
Souvarine, Stalin. A Critical Survey of Bolshevism (xuất bản lần đầu
bằng tiếng Anh năm 1939).
[2] Giữa 1975 và 1981,
chỉ riêng nước Pháp đã tiếp nhận 80.000 người tị nạn từ Đông Dương.
[3] Năm 1963, khá lâu
sau khi không còn quan tâm tới những người cộng sản tại Pháp nữa, thì Jean-Paul
Sartre, tác giả của cuốn Les Mains Sales [Những bàn tay bẩn], vẫn còn
thuyết trình sôi nổi tại Praha về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trước
một cử tọa những người cầm bút và giới trí thức Tiệp Khắc.
[4] ‘La responsabilité
envers l’Histoire dispense de la responsabilité envers les êtres humains’
[5] ‘Pour ma part, je
pense que s’il y a une grande cause aujourd’hui, c’est la defense des
intellectuals’. Trích từ Le Nouvel Observateur, #1140, septembre, 1986.
‘Les Grandes Causes, ca existe encore?’
[6] Antonino Bruno, Marxismo
e Idealismo Italiano (1977), tr.99-100
No comments:
Post a Comment