Trần Trung Đạo
Tháng Ba 30, 2013
Tôi viết về nhiều nơi, những nơi tôi đã đi qua và cả
những nơi tôi một lần đặt chân đến. Tôi viết về Sài Gòn và những ngày bão lửa
75, về Hội An và những mùa lá đổ trước sân chùa, về khu kinh tế mới Đồng Xoài
và những nơi mùa Xuân không còn trở lại. Nhưng, ngoại trừ những dòng thơ của
tuổi học trò nhiều sáo ngữ, mãi đến hôm nay tôi mới viết riêng một bài về Đà
Nẵng. Tại sao? Đơn giản chỉ vì tôi muốn giữ riêng cho tôi trong giấc mơ về một
thành phố dấu yêu, về những con đường hoa phượng đỏ và một thuở hoa niên đầy kỷ
niệm.
Đà Nẵng của tôi, một thời được xem như là một Lebanon của
Châu Á, thành phố chiến tranh, xô bồ, tang tóc. Nơi đó, tháng 3 năm 1965, bước
chân của những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ để làm đầu cầu
cho cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Địa danh Đà Nẵng xuất
hiện nhiều lần trong quân sử Mỹ, nhiều hơn cả những mặt trận lừng danh trong
thế chiến thứ hai như Bulge, Ardennes, Midway v.v. Đà Nẵng với những doanh
trại, bãi biển được gọi bằng tiếng Mỹ: China Beach, TienSa Camp, Monkey
Mountain.
Đà Nẵng của tôi, nơi những buổi chiều của tuổi mười ba,
tôi vẫn thường đứng nhìn những đoàn xe mang nhãn hiệu Sealand, RMK, GMC nối
đuôi nhau mỗi ngày trên chiếc cầu màu đen mang tên của một viên tướng Thực Dân.
Những chiếc chiến xa nặng nề, những khẩu đại pháo nòng dài được cất lên từ chiếc
tàu lớn neo ngoài cửa biển Sơn Chà. Tiếng gầm thét của những đoàn phi cơ chiến
đấu đang đáp xuống phi trường quân sự ngoài ngã ba Duy Tân. Tiếng nhạc, tiếng
cười, tiếng chọc ghẹo, okie, hello, goodbye của những người lính Mỹ và những cô
gái Việt Nam vào tuổi chị tôi, vọng lại từ những hộp đêm dọc bờ sông Bạch Đằng.
Tất cả đã khơi dậy trong lòng tôi nhiều câu hỏi, nhiều băn khoăn và cả những
tủi thẹn đầu đời của một đứa bé Việt Nam, xót xa cho số phận của một cây cổ thụ
bốn ngàn năm đang biến thành cây chùm gởi. Tại sao? Tại sao lại là Đà Nẵng? Tại
sao là Việt Nam quê hương tôi mà lại không phải một nơi nào khác?
Đà Nẵng của tôi, như định mệnh an bài, cũng là nơi an
nghỉ của người lính Mỹ đầu tiên thuộc chiến hạm lừng danh Hoa Kỳ, USS
Constitution. Không phải đợi đến 1965, khi các chiến hạm thuộc Đệ Thất hạm đội
thả neo tại cửa biển Đà Nẵng để đổ bộ các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu
tiên, nhưng từ hơn 120 năm trước, Đà Nẵng đã là một nơi hẹn hò đầy định mệnh
giữa quân đội Việt Nam thời Thiệu Trị và Hộ Tống Hạm Hoa Kỳ đầu tiên của hải
quân Mỹ dưới quyền của hạm trưởng John Percival. Theo các tài liệu còn ghi lại,
năm 1845, chiến hạm USS Constitution của Hải Quân Hoa Kỳ, trên chuyến hải hành
2 năm vòng quanh thế giới, dừng lại cảng Đà Nẵng để xin cung cấp thực phẩm và
nước ngọt. Cũng tại hải cảng lịch sử nầy, Hạm trưởng John Percival xin phép
quan trấn thủ thành Đà Nẵng để chôn cất thủy thủ William Cook vừa qua đời, dưới
chân Núi Khỉ nằm trong rặng Sơn Chà. Thậm chí ông còn “viện trợ” 2 Mỹ kim để lo
phần hương khói. Tiếc thay, chỉ vài ngày sau đó, vì việc triều đình Huế bắt
giam Giám Mục Dominique LeFevre, đã làm cho tang lễ thắm đượm tình nhân đạo của
con người, biến thành một xung đột quân sự giữa hai quốc gia. Cuộc chạm trán
ngắn ngủi năm 1845 rất ít người biết đến. Những viên đại pháo bắn vào lãnh hải
Việt Nam, dù chỉ để đe dọa, cũng đã vô tình gây thương tích cho quan hệ đầy oan
trái giữa hai quốc gia Việt Mỹ sau này.
Đà Nẵng của tôi có khu Ngã Ba Huế nhộn nhịp, nơi tôi từ
Hội An về thăm cô tôi những chiều thứ Sáu trong những chiếc xe khách hiệu
Renault già nua màu xanh đậm. Tôi vẫn nhớ căn nhà nhỏ, ánh đèn dầu loe lắt, bàn
tay xanh xao của cô khi dúi vào túi tôi những tờ giấy bạc được gói kín trong
nhiều lớp vải. Đó là những đồng tiền khó khăn và vô giá mà cô dành dụm cho đứa
cháu trai vào Hội An nương náu trong chùa ăn học. Tôi ra Đà Nẵng tìm cô vào đầu
năm 1968. Nhà cô nghèo, con cháu lại quá đông. Nhiều đêm tôi phải ngủ đói trên
căn gác của một trại cây ở hẻm 220 Hùng Vương, ngang hông phường Thạc Gián. Vài
tuần sau, vì nhà đông đúc, cô đưa tôi đến sống với người anh họ và bà chị dâu
vô cùng khó tánh ở Cỗ Mân, Sơn Chà. Chị dâu tôi khó tánh đến nỗi, chỉ sau một
thời gian ngắn, tôi không chịu đựng được nữa nên lặng lẽ bỏ đi. Tôi vào chùa
Viên Giác. Năm tháng như mây trời, bao độ hợp tan mang theo những giận hờn,
thương ghét. Cô tôi đã về bên cõi khác nhưng lòng tôi sao vẫn nhớ vẫn thương.
Trên xứ người, nhiều đêm không ngủ được, nhớ lại tiếng ho của người cô bịnh
hoạn, tôi vẫn còn nghe nhức nhối như thuở mới về thăm. Chiến tranh và nghèo đói
đã cướp đi bao thế hệ Việt Nam vô tội.
Đà Nẵng của tôi không phải chỉ là điêu linh tang tóc mà
còn là thành phố cảng đẹp tuyệt vời. Những bờ biển uốn cong như mái tóc của
người con gái Việt Nam đang đứng trông ra Thái Bình Dương bao la bát ngát. Từ
eo biển mỹ miều đó những thương thuyền ngoại quốc đã đến thăm thành phố từ mấy
trăm năm trước. Đà Nẵng của tôi có hàng phượng đỏ hai bên đường Bạch Đằng,
đường Độc Lập với những chiếc ghế đá dọc bờ sông mang chứng tích của một thời
học trò đầy kỷ niệm. Đà Nẵng của tôi có bãi Mỹ Khê (chứ không phải China
Beach), với bờ cát trắng chạy dài và hàng dương vi vu theo gió, có bãi Thanh
Bình với những chiếc ghe đánh cá đi về và cảnh chợ chiều nhộn nhịp. Những ngày
hè oi bức, tôi và đám bạn vẫn thường ôm đàn ra ngồi dựa lưng vào những gốc
dương liễu dọc bãi biển. Trong tiếng sóng từng nhịp vỗ vào bờ, chúng tôi cùng
cất cao bài hát Ra Khơi như để cổ võ cho những chiếc thuyền đánh cá đang giong
buồm ra biển. Tôi đâu biết vài năm sau, bạn bè tôi cũng lần lượt ra khơi như
thế nhưng chẳng còn ai dám đến tiễn đưa.
Đà Nẵng của tôi có những hàng cây sao tình tự dọc đường
Thống Nhất, nối từ bờ sông đi ngang qua Trường Nữ, nơi các cô cậu học trò Phan
Châu Trinh, Phan Thanh Giản vẫn thường đứng đợi người trong mơ sau mỗi buổi tan
trường. Những chiếc áo dài trắng thướt tha. Những mái tóc thề chấm vai thơ
mộng. Những đôi mắt nai tơ đó đã từng là nguồn cảm hứng của nhiều nhà thơ xứ
Quảng đa tình. Xin mời đọc vài câu thơ của nhà thơ Luân Hoán viết về các cô nữ
sinh Đà Nẵng:
chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa
trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay
mắt hồng liệng cái ngoắt tay
dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường
chập chùng xuân ảnh vải hương
ngó ai lòng cũng yêu thương tức thì
giả vờ châm thuốc nhâm nhi
nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình.
(Đà Nẵng, thơ Luân Hoán)
Các cô nữ sinh của một thời thơ mộng tung tăng như những
con bướm vàng trên đường Thống Nhất, Lê Lợi, Hoàng Diệu, Khải Định ngày xưa, đã
không về nữa. Các cô đã ra đi, đã bỏ lại sau lưng mình hàng cây sao rợp bóng
bên đường, bỏ lại những chiếc ghế vuông, những ly chanh muối, những quán chè.
Các cô bây giờ đã lớn, đã trưởng thành. Nhiều cô đã là những bà mẹ tay bồng tay
bế, để rồi, 17 năm sau ngồi nhớ lại năm mình 17 tuổi.
Và các cậu học trò cũng thế. Những chàng thanh niên với
buồng phổi và trái tim chất đầy hùng khí của xứ địa linh nhân kiệt đã ra đi.
Thế hệ trẻ Việt Nam trong thời chinh chiến và cả khi đất nước hòa bình, đã chịu
đựng quá nhiều thiệt thòi mất mác. Nỗi bất hạnh lớn nhất của một đời người vẫn
là bất hạnh không có tuổi hoa niên. Các cậu học trò ngày ấy ra đi, bỏ lại sau
lưng những chiếc xe đạp, những quán Cà-phê Thạch Thảo, Thanh Hải, Ngọc Lan,
những rạp hát Trưng Vương, Chợ Cồn, bỏ lại cây đàn guitar cũ kỹ và những bản
tình ca chưa viết trọn trong sân trường. Để rồi nhiều năm, sau cuộc biển dâu,
chinh chiến, gian lao, tù tội trở về. Trở về chỉ để thấy thành phố xưa nay đã
đổi chủ và con đường xưa nay đã đổi thay tên. Tuổi thơ không bao giờ trở lại.
Suối vẫn chảy, nước vẫn reo nhưng điêu linh tang tóc đã xua bầy nai tơ lạc đàn
đi biền biệt, mất dấu đường về bên khe đá cũ.
Sau 1975, những bãi biển Mỹ Khê, Thanh Bình, Tiên Sa,
Thanh Khê, Tân Thái, Mân Quang, Chợ Mai, Chợ Chiều, Non Nước, Nam Ô, v.v.., vẫn
còn là điểm hẹn nhưng không phải là nơi hẹn hò của những cặp tình nhân, nhưng
là nơi những người con Đà Nẵng hẹn nhau để bỏ quê hương mà ra đi. Xin đừng hỏi
họ đi đâu, về đâu trong những đêm tối trời lầm lủi đó. Không ai biết chắc. Chỉ
một điều họ biết là họ không còn chọn lựa nào khác hơn là phải ra đi. Không một
người dân Quảng nào bỏ quê hương ra đi mà không đau xót.
Xin đừng dán lên lưng, lên trán họ những nhãn hiệu theo
Tây, theo Mỹ. Không. Người dân Quảng là những người yêu nước. Ông cha họ đã
từng cười mà bước lên máy chém Thực Dân. Những cơn bão lụt tàn phá mỗi năm đã
không làm họ bỏ làng mạc ra đi. Nạn hạn hán làm ruộng đồng khô cháy mỗi năm
không buộc họ phải bỏ mồ mả tổ tiên ra đi. Sụp căn nhà này họ căm cụi xây trên
nền đất cũ căn nhà khác. Trôi căn nhà này họ lại xẻ gỗ, lợp tranh xây lên căn
nhà khác. Bao thế hệ đã sống và đã chết trên vùng đất cày lên sỏi đá đó. Nhưng chế độ mới, một chế độ nhân danh
những mục tiêu tốt đẹp nhất trên đời đã buộc họ phải ra đi. Sự thôi thúc
của tự do như tiếng gọi thiêng liêng của người cha già vọng về từ một nơi xa
thăm thẳm. Và sẽ không ai biết, bao nhiêu người, trong số hàng ngàn, hàng vạn
người bỏ Đà Nẵng ra đi, đã đến được HongKong, Philippines và bao nhiêu người
không may mắn đã bị chôn sâu trong lòng biển, chết thảm thương trong bàn tay
hải tặc, chết trong đói khát sau những tuần, những tháng lênh đênh ngoài biển
cả.
Đà Nẵng của tôi, sau 1975, không còn thơ mộng nữa. Những
câu ca dao đậm đà tình quê hương đất nước: “Ngó lên hòn Kẽm đá Dừng, thương cha
nhớ mẹ quá chừng bậu ơi” đã được thay bằng những khẩu hiệu đấu tranh giai cấp
chất chứa toàn chuyện oán thù. Những điệu hò khoan đậm đà hương vị Quảng Nam
“Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm, rươụ hồng đào chưa nhấm đà say” đã được thay
bằng những những đêm dài học tập, thảo luận, khuyến khích thầy cô, cha mẹ, anh
em tố cáo lẫn nhau. Ánh trăng không còn là những dải lụa vàng Duy Xuyên đang
trải trên dòng sông Hàn mỗi đêm Rằm, nhưng là những vết dao nghèo đói đang chém
xuống một quê hương vốn đã chịu đựng nhiều bất hạnh.
Ngày cuối cùng của tôi ở Đà Nẵng như đoạn kết của một
cuốn phim buồn. Tôi và cô bé, lý do cho những bài thơ tình học trò đầy sáo ngữ
của tôi, ngồi trên chiếc ghế đá trên đường Bạch Đằng, nhìn sang hướng Sơn Chà.
- Anh sắp phải đi xa.
- Em biết.
- Sao em biết, anh chưa nói với em mà?
- Anh nói với em rồi. “Anh phải vô Sài Gòn học đại học.
Học xong anh sẽ về quê, không đi nữa.” Em còn nhớ anh nói với em câu đó lúc mấy
giờ, ngày nào và tại đâu nữa kìa.
- Không phải. Đó là chuyện hồi chưa “giải phóng”, bây giờ
thì khác.
- Bây chừ anh tính đi đâu?
- Anh vượt biên. Nếu đi lọt, có thể anh sẽ qua Mỹ học.
- Bộ ở Việt Nam không có trường cho anh học sao. Em nghe
nói Mỹ xa lắm, chắc là xa hơn Sài Gòn nhiều. Mùa hè làm sao anh về thăm quê
được.
- Anh sẽ về nhưng chắc không phải mùa hè.
- Anh lại hứa.
Hai đứa nhìn ra sông. Chiếc phà An Hải vẫn mệt mỏi đưa
người qua lại. Giọng hát buồn não nuột của anh thương phế binh cụt hai chân từ
ngoài bến vọng vào: “Rừng lá xanh xanh
cây phủ đường đi. Thành phố sau lưng ôm mộng ước gì. Tôi là người đi chinh
chiến dài lâu. Nên mộng ước đầu nghe như đã chìm sâu”. Anh hát để tưởng nhớ
bạn bè nhưng không biết rằng bạn bè anh đang lần lượt bỏ anh đi. Hàng phượng
dọc bờ sông đã bắt đầu nở rộ nhưng không còn để “Mỗi năm đến hè ,lòng man mác
buồn” nhưng là mùa chia tay vĩnh viễn, nát tan.
Nước sông Hàn lững lờ trôi mang theo dăm chiếc lá. Hai
đứa ngồi im lặng, không biết phải nói gì. Nói gì rồi cũng chia tay. Em đơn
giản, hồn nhiên và ngây thơ đến tội nghiệp. Em sẽ chẳng thể nào hiểu được tôi,
và tôi cũng chẳng biết giải thích thế nào cho em hiểu. Trái đất của em nhỏ
nhoi, bao bọc bởi những rặng tre xanh hiền hòa. Tâm hồn em là giòng sông mùa
thu êm đềm, tĩnh lặng. Tâm hồn tôi thì hoàn toàn tương phản, trùng điệp núi
đèo, ghềnh thác. Tôi sinh ra trong cuộc đời này để gánh hết khổ đau, để làm tên
du mục đi lang thang trên chính quê hương mình. Và ngày mai, tôi lại sẽ bắt đầu
hành trình du mục mới. Con nước trôi còn biết mình đang ra biển. Chiếc lá rơi
còn biết cội quay về, nhưng tôi không biết sẽ về đâu.
Hai mươi hai năm rồi tôi chưa về Đà Nẵng. Cô tôi đã qua
đời. Bạn bè mỗi người một ngã. Cô bé ngày xưa đã có gia đình. Khuôn mặt thành
phố mang nhiều thay đổi. Đà Nẵng thân yêu ơi, có còn nhớ đến tôi không? Căn gác
đường Hùng Vương, căn nhà lá phía trong Ngã Ba Huế, cồn cát trắng ở Mân Quang,
nơi tôi chôn giấu kho tàng tuổi thơ khốn khổ của mình, biết có còn nhận ra tôi, cho dù tôi
trở lại. Và đêm nay, tôi ngồi đây, tưởng tượng một ngày về Đà Nẵng.
Và biết đâu, nhờ chưa về, mà thành phố còn nguyên vẹn
trong trái tim tôi, bởi vì, nếu tôi về thăm, Đà Nẵng chắc sẽ không còn nữa. Hãy
ngủ yên Đà Nẵng của tôi ơi.
Theo FB Trần Trung Đạo
Rất cảm ơn về bài viết của bạn, bài viết rất hay và ý nghĩa.
ReplyDeleteNếu có các nhu cầu về thiết kế, thi công các sản phẩm nội thất như: bàn ghế sofa, giường tủ, thi công trọn gói có thể liên hệ bên Mozza mình nhé.
Click vào đây để xem chi tiết nhé các bạn:
ghế sofa da cao cấp
sofa nhập khẩu hà nội
mẫu sofa da đẹp
sa lông da
sofa da cao cap
hãy liên hệ cho mình nhé.
Cảm ơn !
_______________________________________________
SIÊU THỊ GHẾ SOFA MOZZA
Địa chỉ: 38 - Tương Mai - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Điện thoại: 093 628 3333 - 04 6674 9999
tham my anh thu
ReplyDeletethẩm mỹ anh thư
tham my vien anh thu
thẩm mỹ viện anh thư
thẩm mỹ viện anh thư
tham my vien anh thu
điêu khắc chân mày anh thư
dieu khac chan may anh thu
thẩm mỹ viện anh thư ở đâu
viện thẩm mỹ anh thư o dau