TRÍ
THỨC VÀ TIẾNG NÓI PHẢN BIỆN
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=10222487647437556&id=1160946631
Trong bất cứ xã hội nào,
thì bộ phận có học vấn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với mọi lĩnh vực.
Điều đơn giản này thiết tưởng chẳng cần phải nhắc lại. Nhưng thực tế lịch sử
luôn khiến chúng ta không được yên lòng, chủ quan với bất cứ nhận định nào.
Số phận của trí thức luôn
gắn liền với số phận của những cộng đồng, quốc gia cụ thể, nơi anh ta là thành
viên. Trong những xã hội lạc hậu, bảo thủ, trí thức luôn bị dị nghị, bị nghi ngờ,
bị lánh xa, thậm chí bị coi thường, bị biến thành kẻ thù nguy hiểm, như chúng
ta từng thấy, đang thấy và chắc chắn sẽ còn thấy. Các đấng quân vương, những kẻ
độc tài thường đòi hỏi mọi thần dân đều phải nhất nhất tin theo ông bà ta, cấm
bàn cãi. Mọi lời ông bà ta ban ra là chân lý cuối cùng, bất khả tư nghị, không
ai có quyền nghi ngờ tính đúng đắn tuyệt đối của nó. Trí thức trong những xã hội
ấy thường đóng vai trò làm vật trang trí, không có tiếng nói, hoặc quay sang
quy phục quyền lực để vinh thân phì gia, chấp nhận làm cái loa cho nó, trở
thành những kẻ xu nịnh hèn mạt.
Trong khi đó, trí thức là
“kho trí khôn” là “túi càn khôn”, là “mỏ trí tuệ” của những xã hội văn minh,
nơi đề cao tiếng nói phản biện. Tại đó, trí thức và giới trí thức không chỉ là
những người cung cấp ý tưởng, tư tưởng, các sáng kiến, vạch ra kế sách, can dự
vào các chính sách, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn những giá
trị tinh thần cao quý như đạo đức, lẽ phải, sự tiến bộ, định hình chiến lược
giúp quốc gia hướng tới tương lai.
Vậy trí thức thực chất là
ai?
Có khá nhiều định nghĩa
thế nào là một trí thức? Theo tiêu chí học vấn và có vẻ cũng dễ được chấp nhận
nhất, thì trí thức là người có bằng cấp, có học hàm học vị. Theo tiêu chí công
việc, thì trí thức là những người chuyên nghiên cứu, phát minh, sáng chế, quản
lý, truyền thụ kiến thức....nghĩa là làm việc bằng cái đầu. Rồi với mỗi chế độ
xã hội lại có những định nghĩa khác nhau, theo quan niệm riêng của mình, về trí
thức.
Một trí thức lớn (mà tôi
không nhớ tên) có một cách nói rất hay, làm nổi bật chân dung của một trí thức.
Ông bảo rằng: Người nghĩ ra bom hạt nhân, chắc chắn phải là một bác học. Nhưng
nếu anh ta không thấy trước để cảnh báo về tai họa của bom hạt nhân với nhân loại,
thì anh ta chưa phải là một trí thức!”
Một người học đầy mình,
có đủ kiến thức đông tây kim cổ nhưng nếu thiếu trách nhiệm với cộng đồng, thiếu
đạo đức, vô cảm với nỗi đau đồng loại, thì vẫn chưa phải là một trí thức.
Sự quan trọng của trí thức
trước hết bởi họ vốn là những người luôn có óc hoài nghi. Người bình thường, những
kẻ ít học, có thể yên phận tin theo số đông, nhưng một trí thức thì không, hoặc
không dễ tin theo. Thậm chí anh ta sẵn sàng chống lại tất cả để bảo vệ quan điểm,
chính kiến của mình.
Nhưng giá trị đích thực,
giá trị lớn nhất của trí thức lại ở chính cái phẩm chất ấy?
Thứ hai, trí thức là những
người có tầm nhìn xa, có tư duy sắc bén, nhạy cảm với mọi thay đổi. Họ là những
người đoán định được tương lai dựa trên những suy tưởng mang tính triết học.
Nhưng có lẽ quan trọng nhất,
trí thức là nguồn ánh sáng dẫn dắt sự phát triển lành mạnh của xã hội. Một xã hội
không phát triển, chắc chắn là một xã hội không có tương lai. Nhưng sự phát triển
thiếu dẫn dắt, thiếu trí tưởng tượng lại rất dễ gây thảm họa, tạo ra thứ chúng
ta gọi là nhân tai, thậm chí còn nguy hiểm cả hơn thảm họa thiên tai, như chúng
ta vẫn thấy.
Chính vì những điều đó mà
tiếng nói của trí thức luôn vô cùng quan trọng. Nó cần thiết vào mọi thời điểm,
mọi không gian quyền lực chính trị, văn hóa, với mọi thể chế xã hội. Trước mỗi
vấn đề lớn của quốc gia, liên quan đến hàng triệu người, thì tiếng nói của trí
thức càng phải được lắng nghe một cách nghiêm túc và chân thành.
Trên thực tế, thì tiếng
nói quan trọng nhất của trí thức thể hiện ở những ý kiến phản biện.
Tuy được nhắc đến hàng
ngày, nhưng không nhiều người hiểu thấu đáo từ phản biện, hành động phản biện.
Vì nó có từ “phản” (luôn được hiểu là chống lại) nên thường phản biện bị gán
cho nghĩa tiêu cực. Tiêu cực nhất mà người ta hay quy cho phản biện, là nó làm
thất tán sự tập trung, phá rối, gây mất đoàn kết của cộng đồng khi thực hiện một
công việc, một chính sách nào đó!
Vậy phản biện cần được hiểu
thế nào?
Trước hết, phản biện là một
tư duy, một thái độ và một quyền. Trong từ điển Đào Duy Anh, thì phản có nhiều
nghĩa: Trái; Trả lại; Trở về; Tự xét. Còn từ biện có các nghĩa: Xét rõ để phân
biệt; Tranh luận phải trái; …Ghép hai từ lại với nhau thành Phản biện, có thể
hiểu là đưa ra một cái nhìn trái chiều mang tính tranh luận, trên cơ sở học thuật
và trách nhiệm, để tìm ra những chỗ sai, những chỗ chưa hợp lý, những chỗ chưa
chuẩn xác, chưa khôn ngoan, chưa hợp thời… (của một quan điểm, một chính sách
nào đó) rồi cùng nhau đạt đến mức hoàn thiện nhất có thể. Như vậy từ sâu trong
bản chất, phản biện mang tính trách nhiệm và tinh thần xây dựng, chứ không như
nhiều người cho rằng nó nhằm chống lại, phá rối?
Đã phản biện thì đòi hỏi
đầu tiên phải có chính kiến. A dua, nói theo thì còn phản biện nỗi gì! Bởi vì a
dua là một hình thức xu thời, chắc chắn mang động cơ vụ lợi cá nhân.
Tiếp theo, muốn phản biện,
phải có nền tảng học vấn tốt, có tư duy độc lập, không chấp nhận bất cứ CHỈ ĐẠO
định hướng nào, của bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào.
Cuối cùng, người đưa ra ý
kiến phản biện phải là người có tư cách đạo đức, có tinh thần tự do.
(Chiếu theo các tiêu chí
này, thì liệu chúng ta có bao nhiêu trí thức, bạn đọc hãy tự trả lời. Rất nhiều
người có bằng cấp đầy mình, có hàng chục danh hiệu sang trọng về học vấn đi kèm
nhưng thực sự họ chỉ là KẺ GIÚP VIỆC).
Vì sao cần tiếng nói phản
biện?
Trên thực tế không có bất
cứ thứ gì là hoàn hảo, vì thế bất cứ thứ gì muốn tiến tới hoàn hảo, cũng cần được
soi xét nhiều chiều. Một mô hình phát triển, một đường lối, một chính sách, một
điều luật, một chủ trương… có ảnh hưởng lớn đến xã hội, cho dù nhóm soạn thảo
có tài giỏi đến đâu, cá nhân nào đó có là thiên tài, thì vì đặc tính “nhân vô
thập toàn” của con người, không thể nào bao quát được toàn bộ sự đúng đắn. Sự
giới hạn về mặt không gian, thời gian, văn hóa… cũng luôn là một vật cản chắn tầm
mắt của những người trong cuộc.
Khi đó nó cần các nhà phản
biện, như những người có thể giúp họ thoát ra khỏi vấn đề để nhìn nó từ bên
ngoài, từ nhãn quan khác, từ phía ngược lại. Bởi vì mục tiêu cuối cùng của phản
biện không phải là để tranh hơn tranh kém về tầm vóc học vấn, không phải nhằm
tìm cách bôi nhọ, giễu cợt nhau, không nhằm xóa bỏ vô lối, vô lý mà để hoàn thiện
thứ bị phản biện.
Viết đến đây tôi lại nhớ
đến lời của một vĩ nhân: “Dân tộc nào thiếu vắng những nhà phản biện lớn, thì
đó là dân tộc đại vô phúc”.
Một đảng phái, một chính
thể luôn tuyệt đối hoá mình, tự coi mình là đỉnh cao trí tuệ, là chân lý thời đại
để từ đó coi mọi ý kiến không giống mình là sai trái rồi tìm mọi cách đàn áp bằng
bạo lực, sẽ không bao giờ có tương lai.
No comments:
Post a Comment