15/04/2021
https://www.voatiengviet.com/a/long-tu-trong-va-nhan-quyen/5854131.html
https://gdb.voanews.com/8E70A351-C515-4DB2-BB89-1470FCE379A6_w650_r1_s.png
Báo cáo nhân quyền
Việt Nam năm 2019 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, công bố ngày 11/03/2020. Photo
State.gov
Lời dẫn nhập: Tôi
viết bài dưới đây nhân Ngày Quốc tế Nhân quyền cách đây 15 năm. Hôm kia khi
tình cờ đi tìm tài liệu thì nhìn thấy nó. Thật tình thì tôi không nhớ là có gửi
đăng bài này ở đâu chưa. Nhưng nội dung của nó vẫn còn giá trị (tôi chỉ cập nhật
vài thông tin và rút ngắn lại). Ngẫm nghĩ mà thấy thật buồn. 15 năm là một thời
gian không quá dài, nhưng không hề ngắn. Tình trạng nhân quyền tại Việt Nam vẫn
không khá hơn chút nào. Rõ ràng mục tiêu của chế độ cầm quyền không phải là để
nâng cao tinh thần và phát triển của người dân mà cốt yếu làm cho họ chán nản,
nhụt chí để chế độ tự tung tự tác mọi hoạt động xã hội. Nhân nói về đề tài nhân
quyền, đặc biệt là quan điểm của cộng sản Trung Quốc, xin mời quý độc giả đọc
và phê bình bài này.
Nhân quyền là một
giá trị phổ quát
Từ lâu nay, chúng ta cảm nhận về nhân quyền
trên bình diện rất thực tế. Nghĩa là, đối với người Việt, đặc biệt tại hải ngoại,
dù nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) có đưa ra bao nhiêu "Sách Trắng
về Nhân Quyền" để đánh bóng các thành tựu về quyền con người tại Việt Nam
đi chăng nữa, nó cũng chẳng hề thay đổi được cách đánh giá và sự nhận xét của
nhiều người. Qua kinh nghiệm và bằng chứng thực tế, nhân quyền tại Việt Nam rõ
ràng vẫn bị chà đạp một cách tồi tệ có hệ thống. Tất nhiên, có những luận cứ cho
rằng đời sống đã tốt hơn nhiều kể từ khi đổi mới. Đúng, điều đó không thể phủ
nhận. Nhưng một điều khác cũng không thể phủ nhận, là các quyền tự do về
chính trị và dân sự, từ tự do thông tin ngôn luận đến hoạt động đảng phái hay
phục hoạt giáo hội, ngoài những cái ‘tự do’ trong tầm kiểm soát của đảng, thì vẫn
còn bị kiềm kẹp như thời toàn trị. Tức là vẫn chưa có một sự tiến bộ đúng nghĩa
nào về nhân quyền, khi nhân phẩm bị chà đạp và coi rẻ chưa từng thấy. Điển hình
như hàng trăm ngàn cô dâu và công nhân Việt Nam phải đi làm lao động tại Đài
Loan (vào thời điểm đó) hay 39 người chết trong xe tải cách đây vài năm (mà người
ta gọi là “thùng nhân”). Các bản báo cáo nhân quyền mới nhất của Amnesty
International, Human
Rights Watch, Freedom
House, hay Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ, về tình trạng nhân quyền năm 2020 chứng minh điều này.
Thật ra, nếu chỉ nói về tình trạng nhân quyền
tại Việt Nam thôi thì cũng thiếu công bằng và khách quan, bởi vì nhân quyền là
vấn đề của thế giới, của nhân loại. Thêm vào đó, cũng cần nhìn nhận rằng học
thuyết nhân quyền cũng còn rất mới mẻ. Nó chỉ mới chính thức hiện hữu như một
văn bản là Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền vào ngày 10 tháng 12 năm 1948. Tuy
nhiên, cho đến tận bây giờ, không riêng gì Việt Nam mà còn nhiều nơi khác trên
thế giới, nhân quyền vẫn còn bị vi phạm một cách trầm trọng và có hệ thống. Đọc
báo cáo nhân quyền từ các tổ chức từ Liên Hiệp Quốc, hay từ các quốc hội Châu
Âu, Anh, Úc, Đức, Hoa Kỳ, [1] v.v... thì tình trạng vi phạm
nhân quyền ở nhiều nơi vẫn còn rất nghiêm trọng.
Ngay tại Úc này, được xem là quốc gia văn minh
tiến bộ hàng đầu, thế nhưng chỉ vài thập niên nay mới chính thức xem người bản
địa Úc như những con người với đầy đủ giá trị và nhân phẩm. Trong lịch sử Úc,
ngay từ ban đầu khi những người ‘khai hoang’ đến định cư, họ đối xử với người bản
địa như thú vật, và xem đất nước này như không có con người sống ở đó, nên đã bắn
giết, độc hại người bản địa một thời gian dài (khoảng 1788-1900). Sau đó một thời
gian, họ khám phá ra rằng, những người này có thể làm các việc nhà, nên từ đó đối
xử người bản địa giống như trẻ con. Rồi sau đó đối xử giống như vị thành niên
khi khám phá rằng, những người này có thể cầm súng chiến đấu tại Châu Âu... Mãi
cho đến giữa thập niên 1960s, người bản địa mới thật sự được đối xử như những
con trưởng thành, bằng các văn bản pháp luật hẳn hoi. Tất nhiên trong đầu của
người bản địa, họ luôn là con người, và trưởng thành, nhưng vấn đề là đầu óc của
người da trắng không nhìn người bản địa như thế. Cho nên một thời gian dài đã
không công nhận và đối xử một cách văn minh, bình đẳng với họ.
Sự đối xử bất công và nhiều khi tàn bạo với
người cùng sắc tộc, và hơn nữa, với các sắc tộc khác, là một vấn đề khá phức tạp,
liên hệ đến lịch sử, văn hoá, và ý thức hệ (chính trị, tôn giáo...). Tuy nhiên,
để tìm hiểu bản chất của các vấn đề nêu trên, và thêm vào đó, để nhìn nhân quyền
ở một khía cạnh triết lý, bổ túc cho phần thực tế, chúng ta cần đi từ căn
nguyên nhận thức về con người và quyền.
Tự trọng là nền tảng
của nhân quyền
Theo giáo sư chính trị học Ralph Pettman[2],
nhân quyền liên hệ mật thiết đến tính tự trọng (self-esteem). Vì thế không thể
giáo dục bất cứ ai về nhân quyền nếu người đó không có lòng tự trọng. Với tư
cách là một chuyên gia về chính trị thế giới (International politics) và kinh tế
chính trị (Political economy), từng là một nhà quản lý cao cấp trong Ủy Hội
Nhân Quyền Úc (Australian Human Rights Commission) cũng như Trung Tâm Nhân Quyền
của Liên Hiệp Quốc (United
Nations Centre for Human Rights), giáo sư Pettman được xem là người có thẩm
quyền trong lĩnh vực nhân quyền quốc tế. Ông đã dành 5 năm để nghiên cứu và soạn
thảo chương trình giáo dục về nhân quyền cho học sinh Úc (sau này ông cũng soạn
thảo chương trình giáo dục tương tự cho Liên Hiệp Quốc) từ tiểu
học đến trung
học. Ngày nay Úc là một nơi mà nhân quyền luôn được đề cao tối đa, và tự bản
thân của các chương trình giáo dục này cũng phần nào nói lên điều đó. Ông cho
biết, qua 400 trường tiểu và trung học trên toàn Úc, ông đã gặp phải một trường
hợp đặc biệt khi muốn thực hiện chương trình giáo dục nhân quyền với học sinh ở
lứa tuổi 14. Lúc đó, họ thực hiện một thử nghiệm nho nhỏ về lòng tự trọng của học
sinh, và khám phá ra rằng những học sinh này không có lòng tự trọng nào cả. Do
đó, họ quyết định là không có lý do gì để tiến hành chương trình giáo dục nhân
quyền, mà phải trở lại các bước căn bản để thực tập về lòng tự trọng, sự đồng cảm
cũng như sự kính trọng người khác và chính mình. Từ đó mới có căn bản để được
giáo dục về nhân quyền.
Mặc dầu Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền chính thức
hiện hữu cách đây 71 năm, nhưng chủ thuyết nhân quyền bằt nguồn từ Thời Đại
Khai Sáng (The Age of Enlightenment, thế kỷ 18). Học thuyết nhân quyền xuất
phát từ Duy Lý luận (Rationalism), đặc biệt là từ Chủ nghĩa Phóng phoáng
(Liberalism), với chủ trương đề cao sức mạnh của lý lẽ (thảo luận hợp lý), giá
trị cá nhân, quyền tự do ngôn luận, hội họp, và thờ phượng. Toàn bộ học thuyết
nhân quyền (thí dụ như 30 điều trong TNQTNQ, đặc biệt 3 điều căn bản là 1, 2 và
30) [3] được xác định trên khái niệm rằng, chúng ta trân
quý bản thân mình, cái tôi của mình, cái cá tính của mình... Và chúng ta đều là
những cá nhân biết suy nghĩ, biết lý luận, biết quyết định vận mạng của chính
mình. Không ai có thể thay thế hay cướp đi quyền đó (tất nhiên cũng có ngoại lệ
như những ai không thể tự lo, ví dụ như mắc bệnh tâm thần, chẳng hạn...).
Tuy nhiên, để làm được việc đó, chúng ta phải
có khả năng tách rời tinh thần và thể xác (Mind and Body), nghĩa rằng đầu óc phải
‘tách rời’ (detached) thân thể để từ đó có thể nhìn thế giới, và nhìn lại mình,
từ một khoảng cách tinh thần. Điều này có thể dễ cho những ai sống trong nền
văn hoá Tây phương (như Úc, Mỹ, Anh v.v...) được xây dựng trên nền tảng của chủ
nghĩa phóng khoáng, nên được giáo dục một cách có hệ thống về sự tách rời
(separation), cách biệt (alienation), khả năng tự quyết, hay nói chung là những
chủ thể được khách quan hoá. Qua quá trình luyện tập tinh thần để làm được như
thế, chúng ta có thể để đầu óc tự do tách khỏi thân thể mình, để tầm nhìn của
chúng ta vượt xa, vượt khỏi khuôn khổ gia đình mình, cộng đồng mình, đất nước
mình, và như thế mới nhìn thấy được những con người khác, tuy khác bản sắc văn
hoá với mình, nhưng vẫn là những con người đúng nghĩa và xứng đáng được đối xử
một cách nhân bản. Và khi nào chúng ta làm được như thế thì rất dễ nhận diện ra
được chính bản thân mình từ chủ điểm khách quan. Để từ đó chúng ta dễ suy luận
về vấn đề nhân quyền hơn.
Vì thế, khi nhìn ở khía cạnh này, nhân quyền
không phải là một vấn đề hiển nhiên, dễ hiểu, rõ ràng, mà cần phải suy nghĩ
khoa học, khách quan, mới có thể đi đến một định nghĩa phổ quát được chấp nhận.
Từ đó, chúng ta mới nhận diện ra được ai được bảo vệ (inclusion) quyền con người
và ai không được (exclusion). Nhìn ở góc cạnh này, chúng ta cũng dễ nhận diện
ra được ai đang thật sự tôn trọng nhân quyền và ai đang chà đạp lên nó.
Nói cách khác, học thuyết nhân quyền đặt trên
nền tảng rằng là khi chúng ta không biết trân quý bản thân mình thì chúng ta
không thể biết trân quý người khác. Cho nên nếu không có tính tự trọng thì
không thể tôn trọng nhân quyền, của mình cũng như của người khác. Điều đó cũng
có nghĩa rằng khủng bố và nhân quyền là hoàn toàn đối nghịch nhau. Do đó, những
nơi nào chuyên dùng bạo lực, khủng bố để cai trị dân, hay những nơi bọn khủng bố
chuyên dùng vũ khí, ôm bom tự sát…, cho dù ‘cứu cánh biện minh cho phương tiện’,
thì nhân quyền vẫn thường bị chà đạp trắng trợn ở đó.
Nhân quyền và Cộng
sản
Từ trong căn bản, chủ nghĩa phóng khoáng
(Liberalism, nền tảng của xã hội tư bản ngày nay) và chủ nghĩa Mác-xít
(Marxism, nền tảng của xã hội cộng sản, được Ăng Ghen và Lenin cũng như Stalin
và Mao khai triển thêm theo chiều hướng có lợi hơn cho họ sau này) đã đối nghịch
nhau về vấn đề cưỡng bách và bạo lực. Tuy cả hai khuynh hướng đều đề cao mục
tiêu giành tự do, dân chủ, công bằng, nhưng khác biệt ở các điểm như sau. Một,
Liberalism đề cao giá trị cá nhân và tự do cá nhân trong khi Marxism đề cao
tính tập thể, tính đảng. Hai, Liberalism phản đối mọi biện pháp cưỡng bức, bạo
lực lên người khác (ngoại trừ những thành phần dùng bạo lực thì phải kiềm chế họ)
trong khi các nhà tư tưởng hàng đầu của chủ nghĩa cộng sản thì luôn nhấn mạnh
đến việc thực hiện cuộc cách mạng bằng bạo lực để lật đổ giai cấp tư sản. Trong
tác phẩm "Nhà Nước và Cách Mạng", [4] Lenin biện
luận một cách đầy mâu thuẫn để kết luận rằng, không còn con đường nào khác để lật
đổ giai cấp tư sản ngoài bạo lực cách mạng, sau đó chuyên chính vô sản thay mặt
toàn dân lên nắm chính quyền (giai đoạn 1), tiến đến chủ nghĩa xã hội (giai đoạn
2) và sau cùng là tiến lên chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn 3, lúc mà người dân sẽ
"làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu", và sẽ có được nền dân chủ
không có ngoại lệ, tức là tuyệt đối)!
Đối với những người cộng sản, bạo lực và cưỡng
bách tuy được biện minh là phương tiện, nhưng nó ngang nhiên trở thành cứu
cánh. Cho nên mọi cuộc cách mạng do các đảng cộng sản tiến hành, đều mang tính
bạo động. Cuộc cách mạng tháng 8 (19/8/1945) không có lý do gì để mang tính bạo
động ví lúc đó là khoảng trống chính trị (đúng ra là vì Việt Minh hay Đảng Cộng
Sản Đông Dương lúc đó không có đủ lực để gây bạo động). Nhưng sau khi củng cố
chính quyền thì họ lại bắt đầu các thủ đoạn thủ tiêu lãnh tụ của các đảng phái
quốc gia. Nền độc lập và thống nhất dù chưa thành tựu thì đảng lại tiếp tục đưa
dân tộc Việt Nam qua ba cuộc chiến tranh Đông Dương, chưa kể chiến tranh biên
giới với Trung Quốc vào năm 1979. Sau ngày 30/4/1975, và mãi cho đến nay, bạo lực
vẫn là phương tiện để ‘ổn định’ xã hội, thay vì hòa giải và các chính sách đúng
đắn.
Nói chung, sau các cuộc cách mạng “long trời lở
đất”, giết chết hàng trăm triệu người trên thế giới, các chế độ cộng sản tại Việt
Nam và còn lại trên thế giới vẫn bám víu vào bạo lực.
Nếu tự trọng là giá trị nền tảng của nhân quyền,
thì cũng có lắm điều để suy ngẫm về tính tự trọng của người Việt Nam [5].
Riêng một trường hợp rất đặc biệt không thể không nhắc đến, là việc lãnh tụ Hồ
Chí Minh của ĐCSVN, người đã dùng bút hiệu Trần Dân Tiên qua tác phẩm "Những
mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch". Một chính trị gia đầy kinh
nghiệm và thủ đoạn như ông nhưng lại không có một sự tự trọng tối thiểu nào. Hồ
Chí Minh đã “làm gương” cho các lãnh đạo cộng sản Việt Nam về sau. Có mấy ai
trong giới lãnh đạo Việt Nam có lòng tự trọng tối thiểu!!!
Vài kết luận
Theo tinh thần của các quốc gia ký vào bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, nó phải được truyền bá và trình bày rộng rãi, và
được đọc và giải nghĩa tại các trường học và các cơ sở giáo dục... Đặc biệt, đối
với những quốc gia từng là nạn nhân của các chế độ độc tài, trong đó nhân quyền
bị chà đạp nặng nề, thì điều đáng làm nhất là tổ chức các khóa hướng dẫn đề
cao lòng tự trọng và giá trị nhân quyền. Thế nhưng, kể từ khi Việt Nam ký vào bản
TNQTNQ [6], không biết có bao giờ nhà cầm quyền CSVN tổ chức
các chương trình giáo dục về nhân quyền cho học sinh tiểu và trung học chưa.
Công việc mang tính giáo dục để truyền đạt giá trị lâu dài, phổ quát, và không
bị chính trị hoá, sẽ giúp cho thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau biết hành xử
văn minh để sống chung với nhau trong hoà bình.
Căn bản của nhân quyền là lòng tự trọng. Nhưng
lòng tự trọng không tự nhiên mà có. Người ta chỉ tự trọng khi được tôn trọng,
và được giáo dục để tự trọng, nhất là từ lúc còn bé. Cơ bản nhất là phải được
giáo dục về sự tự tin. Nếu cha mẹ hoặc xã hội chung quanh không tôn trọng trẻ
con và không dạy chúng tự trọng thì khó mà chúng có lòng tự trọng. Cho nên, để
phát triển lòng tự trọng, trong trường hợp của người Việt Nam, chúng ta cần ít
nhất 2 điều kiện cơ bản: 1) giáo dục: không những nội dung giáo dục mà còn ở
cách giáo dục. Việt Nam cần một hệ thống giáo dục khoa học và nhân bản, tách rời
mọi khuynh loát của chính trị. 2) chính trị: tự do cá nhân và quyền cá nhân phải
được tôn trọng. Không ai phải bị hệ thống sỉ nhục khi có ý kiến riêng (khoan
bàn đến chuyện đúng hay sai).
Tóm lại, muốn tôn trọng nhân quyền thì trước hết
phải xây dựng lòng tự trọng trong mỗi công dân. Để làm được việc này thì điều
kiện tiên quyết là phải xây dựng một hệ thống giáo dục và chính trị mới, bởi vì
cái mà Việt Nam có bấy lâu nay hoàn toàn đối nghịch lại nền tảng giá trị nhân
quyền. Có được ý niệm như thế, nó sẽ giúp cho người Việt Nam nâng cao ý thức
công dân, từ đó sẽ không chấp nhận các chế độ độc tài trên đất nước Việt Nam.
Phạm Phú Khải
Viết ngày 12/12/2006; biên tập lại 14/04/2021
--------------------
Chú thích
[1] Bản báo cáo nhân quyền mới nhất của Bộ
Ngoại Giao Mỹ, phổ biến vào ngày 30 tháng Ba năm 2021, mà đã đề cập trong
bài viết vừa qua.
[2] Từng giảng dạy tại đại học Melbourne. Xin xem
http://www.politics.unimelb.edu.au/aboutus/pettman.html.
[3] Có thểm tham khảo bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền có trên
website của Liên Hiệp Quốc.
Bản tiếng Anh có thể tìm tại: http://www.unhchr.ch/udhr/lang/eng.htm
và bản tiếng Việt tại: http://www.unhchr.ch/udhr/lang/vie.htm
[4] V.I. Lenin, "The State and Revolution", Selected Works,
In Three Volumes, Vol 2, Progress Publishers, Moscow 1970.
[5] Đây là một đề tài lớn, cần sự nghiên cứu nghiêm túc, và nằm ngoài
phạm vi của bài này. Tác giả chỉ đưa ra gợi ý để chúng ta khách quan nhìn vấn đề
nhân quyền của dân tộc Việt Nam, không riêng gì với đảng cộng sản. Xin chia sẻ
một kinh nghiệm cá nhân. Mỗi lần đi vận động cho nhân quyền tại Việt Nam, thí dụ
như ký vào các thỉnh nguyện thư gửi cho Liên Hiệp Quốc hay chính phủ Úc, nếu
tính trung bình vận động 10 người không phải Việt Nam (người Úc và các sắc tộc
khác) thì có đến 5-6 người sẵn sàng ký tên ủng hộ nhân quyền, trong khi đó chỉ
có khoảng 2-3 người Việt ký tên. Nhiều người Việt còn không biết gì về sự đàn
áp tại Việt Nam hoặc không quan tâm gì đến lãnh vực này.
[6] Việt Nam đã ký vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền khi gia nhập
Liên Hiệp Quốc vào năm 1977, và đến năm 1982 ký vào hai công ước có tính cách
pháp lý và cưỡng hành cao nhất: Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính
Trị, và Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa.
Xin xem website của LHQ:
http://www.unhchr.ch/tbs/doc.nsf/newhvstatbytreaty?OpenView&Start=1&Count=250&Collapse=3#3
No comments:
Post a Comment