8/11/20
https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/19504-cac-cu-c-cach-m-ng-ph-m-gia
Nhu cầu được thừa nhận phẩm
giá một cách bình đẳng thổi luồng sinh khí cho Cách mạng Pháp, và nó vẫn tiếp tục
sống động cho đến ngày nay.
https://live.staticflickr.com/65535/50580614231_2f7d72dfdf.jpg
Mohammed Bouazizi
đã tự thiêu tại Sidi Bouzid vào ngày 17/12/2010 để phản đối sự tham nhũng của
chính phủ - Nguồn : https://alchetron.com/Mohamed-Bouazizi-1009770-W
Ngày 17/12/2010, cảnh sát
tịch thu hàng hóa trên xe chở rau của một người bán hàng rong ở Tunisia tên là
Mohamed Bouazizi, lấy lý do anh không có giấy phép. Theo lời gia đình kể lại,
anh bị một nữ cảnh sát, Faida Hamdi, tát ngay trước mặt mọi người, cũng là người
đã tịch thu cả cân điện tử của anh và nhổ nước bọt vào mặt anh (việc Hamdi là nữ
có thể tăng thêm cảm giác nhục nhã trong một nền văn hóa trọng nam). Bouazizi
đã đến văn phòng thống đốc để phàn nàn và lấy lại chiếc cân, nhưng thống đốc từ
chối gặp anh. Bouazizi sau đó đổ xăng lên người và tự thiêu, hét lên, "Các
người muốn tôi sống sao ?"
Tin tức về vụ việc này
lan nhanh như cháy rừng ra khắp thế giới Ả Rập, bùng phát ngọn lửa khác với tên
gọi Mùa xuân Ả Rập. Hiệu ứng tức thì thấy rõ ở Tunisia, nơi mà chưa đầy một
tháng sau, bạo loạn tràn lan dẫn đến việc nhà độc tài cố vị Zine El Abidine Ben
Ali rời ghế và từ chức. Các cuộc biểu tình quy mô lớn nổ ra ở các thành phố Ả Rập
khác, đáng chú ý nhất ở Ai Cập gần đó, nơi mà vị lãnh đạo uy quyền Hosni
Mubarak bị buộc phải từ bỏ quyền lực vào tháng 2/2011. Các cuộc biểu tình và nổi
dậy diễn ra ở Libya, Yemen, Bahrain và Syria, khi dân chúng cảm thấy được trao
quyền và bỗng nhiên sẵn sàng chỉ trích các nhà lãnh đạo chuyên quyền. Điều được
tất cả những người biểu tình này cùng chia sẻ là sự phẫn nộ vì cho rằng họ bị
chính phủ làm nhục và coi thường.
Những năm sau đó, Mùa
xuân Ả Rập chuyển biến xấu đi một cách tệ hại. Thảm kịch đau lòng nhất xảy ra ở
Syria, nơi nhà độc tài Bashar al-Assad từ chối rời bỏ quyền lực và phát động cuộc
chiến chống lại chính người dân của mình, khiến cho tới nay có hơn 400.000 người
bị giết hại và hàng triệu người buộc phải di tản. Ở Ai Cập, các cuộc bầu cử dân
chủ sớm đưa Tổ chức Anh em Hồi giáo lên nắm quyền ; lo ngại về việc tổ chức này
áp đặt chủ nghĩa Hồi giáo của mình lên đất nước đã khiến quân đội tiến hành đảo
chính năm 2013. Libya và Yemen rơi vào nội chiến đẫm máu, và các nhà cai trị
chuyên quyền siết chặt kìm kẹp trên toàn bộ khu vực. Chỉ Tunisia, nơi Mùa xuân Ả
Rập khởi phát, bắt đầu giống một nền dân chủ tự do hơn, nhưng thực tại này vẫn
mong manh như ngàn cân treo sợi tóc.
Khi nhìn lại những sự kiện
này, sẽ dễ dàng phán xét rằng Mùa xuân Ả Rập ngay từ đầu không liên quan gì đến
dân chủ, và xu hướng chính trị chủ yếu của khu vực là mô hình chủ nghĩa Hồi
giáo cực đoan.
Tuy nhiên, điều này không
công bằng cho khát vọng chính trị được cởi trói từ hành động tự thiêu của
Mohamed Bouazizi. Thế giới Ả Rập phải chịu đựng chế độ độc tài đàn áp và trì trệ
trong nhiều năm ; tại sao đột nhiên đông đảo mọi người lại liều mạng đáp trả chỉ
vì một sự cố ?
Tình tiết trong câu chuyện
của Bouazizi rất quan trọng. Anh không phải là người biểu tình hay tù nhân
chính trị bị chế độ ngược đãi, mà là công dân bình thường đang vật lộn để mưu
sinh trong khu vực kinh tế phi chính thức. Nhiều nhà doanh nghiệp ở các nước
đang phát triển hoạt động phi chính thức vì hoạt động của chính phủ khiến việc
tuân thủ một loạt quy định pháp lý để điều hành một doanh nghiệp chính thức là
quá khó khăn. Điều khiến trường hợp của Bouazizi rất đỗi quen thuộc với hàng
triệu người ở thế giới Ả Rập là cách mà anh bị nhà nước Tunisia đối xử : hàng
hóa để anh kiếm sống bị tịch thu tùy tiện, anh bị công khai sỉ nhục và khi cố gắng
phàn nàn và đi tìm công lý, không ai lắng nghe. Nhà nước không đối xử với anh
như một con người : đó là một chủ thể đạo đức xứng đáng nhận được sự
tôn trọng tối thiểu, ít nhất là xứng đáng nhận được một lời giải thích hoặc biện
minh cho lý do tại sao sinh kế của mình bị tịch thu. Đối với hàng triệu người
trong thế giới Ả Rập, hành động tự thiêu của anh là kết tinh cho cảm giác bất
công mà họ cảm nhận về chế độ đang cai trị mình.
Thế giới Ả Rập sau đó rơi
vào hỗn loạn vì chính người Ả Rập cũng không thể thống nhất về việc mô hình nào
sẽ thay thế chế độ độc tài cũ. Tuy nhiên, trong một thời điểm vào năm 2011, họ
có sự đồng thuận mạnh mẽ về những gì họ không thích : chính phủ chuyên quyền đối
xử với họ tốt lắm cũng chỉ như với trẻ con, còn tồi tệ nhất thì như con rối để
các chính trị gia tham nhũng lừa gạt, bóc lột về mặt kinh tế hoặc sử dụng làm
bia đỡ đạn trong chiến tranh.
Trong hai thế hệ vừa qua,
thế giới chứng kiến nhiều cuộc nổi dậy tự phát chống lại nhà nước chuyên quyền
như sự chuyển đổi của Nam Phi từ chế độ phân biệt chủng tộc apartheid, các
phong trào dân sự khác ở Châu Phi hạ-Sahara những năm 1990, "các cuộc cách
mạng đa sắc màu" ở Georgia và Ukraine đầu những năm 2000, trong đó việc thừa
nhận phẩm giá cơ bản là vấn đề trọng tâm.
Một trong những cuộc nổi
dậy đó trên thực tế đã được gọi là cuộc Cách mạng Phẩm giá. Tháng Mười một năm
2013, Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych tuyên bố ngừng những nỗ lực hoàn tất
thỏa thuận hợp tác với Liên Hiệp Châu Âu và thay vào đó sẽ tìm kiếm sự hợp tác
mật thiết hơn với Nga trong Liên minh Kinh tế Á Âu của Tổng thống Nga Vladimir
Putin.
Yanukovych từng làm tổng
thống vào thời điểm Cách mạng Cam năm 2004 ; những gian lận nhằm tái cử của ông
làm dấy lên cuộc nổi dậy trên quy mô lớn buộc ông phải từ bỏ quyền lực. Tuy
nhiên, đến năm 2010, ông trở lại vị trí tổng thống khi Liên minh Màu Cam nắm
quyền bất đồng và tha hóa đã không thể thực hiện lời hứa lúc nắm giữ quyền lực.
Nỗ lực của Yanukovych đưa
Ukraine trở về phe Nga gây ra một loạt cuộc biểu tình tự phát ở thủ đô Kyiv khi
vào đầu tháng Mười hai, gần 800.000 người tụ tập tại Maidan để ủng hộ việc tiếp
tục thỏa thuận hợp tác với EU. Chế độ của ông phản ứng bằng bạo lực, nhưng cũng
giống như nhiều trường hợp tương tự, sát hại người biểu tình chỉ càng thổi bùng
thêm sự phẫn nộ và tăng quy mô đám đông ủng hộ phong trào thân Liên Hiệp Châu
Âu (Euromaidan). Sau cái chết của hơn một trăm người biểu tình vào tháng Hai,
Yanukovych mất kiểm soát tình hình và rời ghế tổng thống lần thứ hai, mở ra một
giai đoạn chính trị mới cho Ukraine.
Từ những sự kiện này, mức
độ thành công trong việc xây dựng nền dân chủ tự do của Ukraine không hơn gì
Tunisia. Kinh tế và chính trị bị chi phối bởi một nhóm đứng đầu, một trong số
đó, Petro Poroshenko, sau này được bầu làm tổng thống cuối năm 2014. Tuy thế,
điều quan trọng là phải hiểu được động cơ căn bản của các chủ thể chính trị
liên quan, những người tạo nên cuộc Biểu tình Euromaidan và Cách mạng Phẩm giá.
Đúng ra, cuộc nổi dậy
không phải vì dân chủ, nếu nền dân chủ mà chúng ta nhắc tới liên quan đến lựa
chọn chung được thể hiện thông qua bầu cử. Yanukovych được bầu làm tổng thống một
cách chính danh vào năm 2010, dựa trên sự ủng hộ từ Đảng Các Khu vực của ông.
Chính xác hơn, cuộc chiến liên quan đến nạn tham nhũng và lạm quyền. Yanukovych
với tư cách là tổng thống có thể đã tích lũy hàng tỷ USD tài sản cá nhân, khi
những tiết lộ về cung điện xa hoa và các tài sản khác của ông sớm được phơi
bày. Đảng Các Khu vực nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ một cái đầu đứng trong
bóng tối, Rinat Akhmetov, người kiểm soát hầu hết các ngành công nghiệp lớn ở
miền đông Ukraine. Lựa chọn liên minh với EU hay nước Nga của Putin được coi
như lựa chọn giữa việc sống trong một chính phủ hiện đại đối xử với mọi người
như những công dân bình đẳng và sống trong chế độ mà dân chủ bị thao túng bởi
những kẻ bất lương tự dàn xếp với nhau, đứng đằng sau bức màn dân chủ.
Nước Nga dưới thời Putin
là đại diện tiêu biểu cho kiểu nhà nước này ; việc liên kết mật thiết hơn với
Nga chứ không phải Châu Âu đại diện cho bước đi vào một thế giới, trong đó quyền
lực thực thụ do tầng lớp tinh hoa vô trách nhiệm nắm giữ. Từ đó tạo ra niềm tin
rằng cuộc nổi dậy Euromaidan hướng về việc đảm bảo quyền phẩm giá cơ bản của
dân thường.
Những bộc phát hiện hữu ở
giai đoạn đầu của Mùa xuân Ả Rập và ở các cuộc cách mạng đa sắc màu chỉ ra đâu
là cốt lõi đạo đức của nền dân chủ tự do hiện đại. Các chế độ như vậy dựa trên
nguyên tắc tự do và bình đẳng cùng tồn tại song hành. Tự do có thể được
hiểu theo nghĩa tiêu cực, như không chịu sự kiểm soát từ quyền lực của chính
quyền. Đây là cách mà nhiều người Mỹ bảo thủ giải thích từ này : cá nhân phải được
phép tiếp tục cuộc sống riêng tư của mình theo cách họ muốn. Nhưng tự
do thường có nghĩa lớn hơn việc không bị chính quyền quản chế : nó mang
nghĩa chủ thể con người, khả năng thực hiện một phần quyền lực thông qua sự
tham gia chủ động vào việc tự cai trị. Đây là yếu tố của tính chủ thể mà đám
đông trên đường phố Tunis, Cairo hay Kyiv cảm nhận được, lần đầu tiên họ cảm thấy
mình có thể thay đổi cách thức sử dụng quyền lực chính quyền. Sự tự do này được
thể chế hóa bằng quyền bầu cử, đem tới cho mỗi người dân một phần nhỏ quyền lực
chính trị. Nó cũng được thể chế hóa bằng quyền tự do ngôn luận và tự do hội họp,
con đường dẫn tới tự biểu đạt chính trị. Do đó, nhiều hiến pháp dân chủ hiện đại
bảo vệ nguyên tắc về quyền phẩm giá bình đẳng. Chúng dựa trên truyền thống Kitô
giáo cho rằng phẩm giá bắt nguồn từ chủ thể đạo đức của con người. Nhưng chủ thể
đó không còn được nhìn nhận theo nghĩa của tôn giáo, như khả năng chấp nhận
Chúa ; mà là khả năng tham gia vào việc thực thi quyền lực với tư cách là thành
viên của một cộng đồng chính trị dân chủ.
Nguyên tắc thứ hai trong
những nền dân chủ tự do hiện đại, sự bình đẳng hiếm khi được hiểu theo hàm ý về
một cam kết bình đẳng thực thụ về kinh tế hay xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa,
khi cố gắng biến điều này thành hiện thực, sớm nhận thấy chính mình đang vi phạm
nguyên tắc đầu tiên về tự do, đòi hỏi thực hiện quyền kiểm soát của nhà nước với
quy mô lớn đối với đời sống người dân. Nền kinh tế thị trường dựa trên việc
theo đuổi lợi ích cá nhân, dẫn đến bất bình đẳng về tài sản, do năng lực và
hoàn cảnh lúc sinh ra khác nhau của mỗi người. Bình đẳng trong nền dân chủ tự
do hiện đại luôn mang nghĩa tương tự như bình đẳng về tự do. Điều này hàm ý cả
về tự do phủ định, tức là không bị chính quyền lạm dụng quyền lực, lẫn tự
do khẳng định – quyền tham gia vào việc tự cai trị và giao thương kinh tế.
Nền dân chủ tự do hiện đại
thể chế hóa các nguyên tắc tự do và bình đẳng này bằng cách tạo ra nhà nước đủ
năng lực nhưng bị ràng buộc bởi pháp quyền và trách nhiệm giải trình dân chủ.
Pháp quyền giới hạn quyền lực bằng cách trao các quyền cơ bản nhất định cho người
dân – cụ thể là nhà nước không thể hạn chế lựa chọn cá nhân trong một số lĩnh vực
nhất định như ngôn luận, quyền hiệp hội, tài sản và niềm tin tôn giáo. Pháp quyền
cũng tuân thủ nguyên tắc bình đẳng thông qua việc áp dụng bình đẳng các quy tắc
đó với mọi công dân, kể cả người nắm giữ chức vụ chính trị cao nhất trong hệ thống.
Đổi lại, trách nhiệm giải trình dân chủ trao cho tất cả công dân trưởng thành một
phần quyền lực bằng cách trao quyền cho họ và cho phép họ thay thế giới cai trị
nếu họ phản đối cách thức giới cai trị sử dụng quyền lực. Đây là lý do tại sao
pháp quyền và trách nhiệm giải trình dân chủ thường có tính đan xen chặt chẽ.
Luật bảo vệ cả tự do phủ định khỏi sự lạm dụng của chính quyền và bảo vệ tự do
khẳng định của việc tham gia chính trị bình đẳng, giống như trong thời kỳ quyền
dân sự ở Hoa Kỳ. Sự tham gia dân chủ ở khía cạnh này bảo vệ hệ thống tư pháp khỏi
sự lạm dụng. Trong cuộc Nội chiến Anh ở thế kỷ 17, Quốc hội tập hợp lại nhằm bảo
vệ tính độc lập của tòa án, cũng như xã hội dân sự Ba Lan tìm cách làm điều
tương tự trong năm 2017, khi tính độc lập của tư pháp bị đảng cầm quyền đe dọa.
Các nền dân chủ tự do
trong thế giới thực không bao giờ hoàn toàn đạt tới những lý tưởng nền tảng về
tự do và bình đẳng. Các quyền thường bị vi phạm ; luật pháp không bao giờ áp dụng
bình đẳng với người giàu và người có quyền lực giống như với người nghèo và người
yếu thế ; công dân, mặc dù có cơ hội tham gia chính trị, thường lựa chọn không
tham gia. Hơn nữa, xung đột về mặt bản chất tồn tại giữa mục đích tự do và bình
đẳng : mức tự do lớn hơn thường kéo theo bất bình đẳng gia tăng, trong khi nỗ lực
để bình đẳng hóa kết quả đầu ra làm giảm tự do. Nền dân chủ thành công không phải
thông qua việc tối ưu hóa các lý tưởng của nó, mà bằng sự cân bằng : cân bằng
giữa tự do cá nhân và bình đẳng chính trị, và giữa nhà nước đủ năng lực thực
thi quyền lực chính danh và thể chế pháp luật và trách nhiệm giải trình tìm
cách giới hạn nó. Nhiều nền dân chủ đã cố gắng để đạt được nhiều hơn thế, thông
qua các chính sách nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, môi trường trong sạch,
an toàn cho người tiêu dùng, hỗ trợ khoa học và công nghệ, và những thứ tương tự.
Nhưng thực hiện một cách hiệu quả việc thừa nhận công dân như người trưởng
thành bình đẳng, có năng lực đưa ra lựa chọn chính trị là điều kiện tối thiểu để
trở thành nền dân chủ tự do.
Ngược lại, chính phủ
chuyên quyền, không thừa nhận phẩm giá bình đẳng của công dân. Họ có thể ngụy tạo
việc làm đó thông qua những hiến pháp hoa mỹ như ở Iran, liệt kê một danh sách
phong phú các quyền công dân, nhưng thực tế thì khác. Dân thường được coi như đứa
trẻ cần sự che chở của cha mẹ khôn ngoan, tức là nhà nước ; họ không có được sự
tin tưởng để tự sống cuộc đời của mình. Trong các chế độ độc tài tồi tệ nhất,
chẳng hạn như Hitler, những nhóm dân số lớn – phú nông (kulak), giai cấp tư sản,
người Do Thái, người khuyết tật, các tộc người không phải chủng tộc Aryan – bị
coi như rác rưởi phi nhân hạ đẳng, có thể bị thải loại nhân danh lợi ích tập thể.
Khát khao nhà nước thừa
nhận quyền phẩm giá cơ bản là cốt lõi của các phong trào dân chủ kể từ Cách mạng
Pháp. Một nhà nước bảo đảm quyền chính trị bình đẳng là cách thức duy lý duy nhất
để giải quyết mâu thuẫn mà Hegel thấy trong mối quan hệ giữa giới chủ và nô lệ,
khi chỉ có giới chủ được thừa nhận. Đây là điều khiến người Mỹ đứng lên phản
kháng trong phong trào quyền dân sự, người dân Nam Phi đứng lên chống lại nạn
phân biệt chủng tộc, Mohamed Bouazizi tự thiêu, và những người biểu tình liều
mình ở Yangon, Myanmar, Quảng trường Maidan và Tahrir, và trong vô số các cuộc
đối đầu khác trong nhiều thế kỷ.
Francis Fukuyama
Nguyên tác : Identity : The Demand for Dignity and
the Politics of Resentment, Chap.5, Omega, Vietnam
Khắc Giang, Quang Thái, Bảo Linh dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 08/11/2020
Bài viết lấy từ chương 5 cuốn Bản Sắc – Nhu Cầu Phẩm Giá Và Chính Trị Phẫn Nộ (Identity
: The Demand for Dignity and the Politics of Resentment) của tác giả Francis
Fukuyama, do Omega+ ấn hành tại Việt Nam.
Francis Fukuyama là nhà triết học, chuyên gia kinh tế
chính trị và tác giả người Mỹ, nổi tiếng với luận đề "Sự
cáo chung của lịch sử". Ông từng đạt
giải Sách hay nhất năm 2018 của tờ The Times (Anh) và Sách chính trị hay nhất
năm 2018 do Financial Times bình chọn.
No comments:
Post a Comment