Thứ Năm, 15 tháng 11, 2018
Nhân
kỷ niệm 95 năm Ngày sinh Văn Cao (15/11/1923 - 15/11/2018)
xin giới thiệu bài viết:
xin giới thiệu bài viết:
Hoàng Minh Tường
26-10-2015
Đôi khi những cuốn ghi chép vụn lại giống như kho chứa đồ, bất chợt nhặt được những thứ quí hiếm ngang đồ cổ.
Tình cờ lật dở mấy dòng ghi từ năm 2010, không biết các nhân vật trong buổi gặp tối đó, có ai biến đi đâu không?
Ấy là buổi tối 6 tháng 7 tại nhà hàng 36 Lý Thường Kiệt, một restaurant của gia đình nhạc sỹ Phạm Hồng Hà. Anh chàng tiến sỹ Viện vật lý Đupna, đã giải nghệ từ lâu, mưu sinh tại Mat, trở thành một nhạc sỹ lãng tử với mái tóc Digan và ngón đàn ghi - ta tuyệt kỹ hút hồn đàn bà. Mới về Hà Nội một ngày, anh đã rủ bạn bè đến khai trương thùng rượu Putina. Khách dự Phạm Hồng Sơn, anh trai Hà, vợ chồng Thông và hai người trùng tên Long, Long Bụi và Long Y dược.
Đúng như tên gọi, Long Bụi quả là bụi, bụi từ vóc dáng, ăn mặc, tới khẩu khí. Hỏi ra, mới biết anh là con rể hoạ sỹ Lê Chính, trình bày báo Văn Nghệ nhiều năm, có thời cùng cơ quan với mình. Có lẽ vì bố vợ là hoạ sỹ, bạn thân của những Văn Cao, Hoàng Cầm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên… nên anh con rể cũng đồng thời là đệ tử của các tiên tửu ấy luôn. Lần nào Hoàng Cầm từ Hoả Lò ra, cũng có mặt Long Bụi đến thăm và hầu …rượu. Thời chiến tranh phá hoại, Long Bụi có chân trong tổ dân quân trực quanh Hồ Gươm. Thương cảm Văn Cao, Nguyễn Sáng, Hoàng Cầm…, nhiều lần Long Bụi đã tổ chức đưa thuyền chở các ông ra đảo Tháp Rùa câu cá, uống rượu, rồi hát ca trù, chầu văn cho đỡ … thèm.
– Có chuyện này về cụ Văn Cao, chỉ mình hai bố con tôi chứng kiến – Long Bụi kể – Ấy là cái năm Hội Nhà văn hay Nhạc sỹ Hunggari có giấy mời đích danh Văn Cao sang chơi hay hội thảo gì đó. Tổ chức không muốn cho Văn Cao đi, vì ông thuộc diện văn nghệ sỹ bất hảo, nhưng chưa tìm ra cớ gì ngăn cản. Tối ấy, tôi lai bố Lê Chính cùng bác Văn Cao đi đâu đó. Đến ngã tư Trần Nhân Tông – Mai Hắc Đế, bỗng thấy hai thằng du côn tự nhiên xô vào xe bác Văn, rồi chửi ông và đánh ông túi bụi. Khi ấy tôi đã là một thầy dạy võ, có lò võ riêng. Điên tiết, tôi xông đến, giằng hai thằng côn đồ ra, định dạy cho chúng một bài học. Thấy tôi ra đòn, biết gặp cao thủ, chúng bí quá, liền dí tấm thẻ đỏ vào mặt tôi: “Mày không biết chúng bố là ai, hả? Xéo đi cho các bố làm việc.”
Long Bụi cùng bố vợ, hoạ sỹ Lê Chính, đau đớn đưa nhạc sỹ Văn Cao về nhà phục thuốc.
Thế là chuyến đi Hunggari ấy của Văn Cao không thành.
Đọc lại trang ghi chép trên, buồn đến mấy ngày.
Thì ra, Lưu manh đỏ – danh từ mà tiến sỹ Tô Văn Trường vừa mới nghĩ ra, đã có từ thời Văn Cao.
____
26-10-2015
Đôi khi những cuốn ghi chép vụn lại giống như kho chứa đồ, bất chợt nhặt được những thứ quí hiếm ngang đồ cổ.
Tình cờ lật dở mấy dòng ghi từ năm 2010, không biết các nhân vật trong buổi gặp tối đó, có ai biến đi đâu không?
Ấy là buổi tối 6 tháng 7 tại nhà hàng 36 Lý Thường Kiệt, một restaurant của gia đình nhạc sỹ Phạm Hồng Hà. Anh chàng tiến sỹ Viện vật lý Đupna, đã giải nghệ từ lâu, mưu sinh tại Mat, trở thành một nhạc sỹ lãng tử với mái tóc Digan và ngón đàn ghi - ta tuyệt kỹ hút hồn đàn bà. Mới về Hà Nội một ngày, anh đã rủ bạn bè đến khai trương thùng rượu Putina. Khách dự Phạm Hồng Sơn, anh trai Hà, vợ chồng Thông và hai người trùng tên Long, Long Bụi và Long Y dược.
Đúng như tên gọi, Long Bụi quả là bụi, bụi từ vóc dáng, ăn mặc, tới khẩu khí. Hỏi ra, mới biết anh là con rể hoạ sỹ Lê Chính, trình bày báo Văn Nghệ nhiều năm, có thời cùng cơ quan với mình. Có lẽ vì bố vợ là hoạ sỹ, bạn thân của những Văn Cao, Hoàng Cầm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên… nên anh con rể cũng đồng thời là đệ tử của các tiên tửu ấy luôn. Lần nào Hoàng Cầm từ Hoả Lò ra, cũng có mặt Long Bụi đến thăm và hầu …rượu. Thời chiến tranh phá hoại, Long Bụi có chân trong tổ dân quân trực quanh Hồ Gươm. Thương cảm Văn Cao, Nguyễn Sáng, Hoàng Cầm…, nhiều lần Long Bụi đã tổ chức đưa thuyền chở các ông ra đảo Tháp Rùa câu cá, uống rượu, rồi hát ca trù, chầu văn cho đỡ … thèm.
– Có chuyện này về cụ Văn Cao, chỉ mình hai bố con tôi chứng kiến – Long Bụi kể – Ấy là cái năm Hội Nhà văn hay Nhạc sỹ Hunggari có giấy mời đích danh Văn Cao sang chơi hay hội thảo gì đó. Tổ chức không muốn cho Văn Cao đi, vì ông thuộc diện văn nghệ sỹ bất hảo, nhưng chưa tìm ra cớ gì ngăn cản. Tối ấy, tôi lai bố Lê Chính cùng bác Văn Cao đi đâu đó. Đến ngã tư Trần Nhân Tông – Mai Hắc Đế, bỗng thấy hai thằng du côn tự nhiên xô vào xe bác Văn, rồi chửi ông và đánh ông túi bụi. Khi ấy tôi đã là một thầy dạy võ, có lò võ riêng. Điên tiết, tôi xông đến, giằng hai thằng côn đồ ra, định dạy cho chúng một bài học. Thấy tôi ra đòn, biết gặp cao thủ, chúng bí quá, liền dí tấm thẻ đỏ vào mặt tôi: “Mày không biết chúng bố là ai, hả? Xéo đi cho các bố làm việc.”
Long Bụi cùng bố vợ, hoạ sỹ Lê Chính, đau đớn đưa nhạc sỹ Văn Cao về nhà phục thuốc.
Thế là chuyến đi Hunggari ấy của Văn Cao không thành.
Đọc lại trang ghi chép trên, buồn đến mấy ngày.
Thì ra, Lưu manh đỏ – danh từ mà tiến sỹ Tô Văn Trường vừa mới nghĩ ra, đã có từ thời Văn Cao.
____
Mời xem lại:
Nguyễn
Lân Thắng: ‘tôi chấp nhận rủi ro’ (BBC/ BS).
Phải
xóa sổ ngay băng nhóm xã hội đen mới xuất hiện ở Hà Nội (Blog RFA/ BS).
Côn
đồ mượn danh “ủng hộ Hồ Chí Minh” để gây rối tại Hà Nội (ĐT/ MTA/ BS).
---------------------------------
Đào Tiến Thi
14/11/2018
Nhạc sỹ Văn Cao lớn lên và bước vào nền Tân nhạc Việt
Nam tại đất cảng Hải Phòng.
Văn Cao
Từ nhỏ sống với cha trong nhà máy bơm nước, kê tấm
phản bên cạnh cái máy bơm làm bàn học, lớn lên đi làm ở nhà bưu điện rồi thất
nghiệp, thế nhưng mảng nhạc tình của ông trước Cách mạng tháng Tám, viết trên
cái nền bụi bặm của phố cảng và giữa cuộc sống nghèo khó, bấp bênh của mình, lại
không gợn chút “bụi trần”. Cung đàn xưa, Thiên thai, Suối
mơ, Bến xuân, Buồn tàn thu,... đều như những cõi mộng đẹp của một tâm
hồn yêu đời, ham sống.
Riêng Cung
đàn xưa có vẻ mông lung, khó hiểu. Chính Văn Cao cũng chỉ nói chung
chung đây là “tiếng nói của kỷ niệm”, cái kỷ niệm “nó cứ đeo đẳng, không thể
quên được”, về “những điều đã mất trong những những ngày tuổi trẻ của mình[1]”.
Lấy trong ý tứ mà suy[2] thì đây là kỷ niệm về một mối tình, một mối tình thoáng qua (hoặc
cũng có thể là mối tình trong tưởng tượng) nhưng để lại dư vị đầy tiếc nuối.
Có một nàng bỗng nhiên xuất hiện và
“xe kết” cùng chàng. Tác giả không tả cuộc tình mà chỉ tả cảm giác
hiện tại và hồi tưởng lại cảm giác quá khứ. Mở đầu bằng hình ảnh “cây đàn bỏ
quên”, tượng trưng mùa xuân tàn, cho cuộc tình duyên đã lỡ:
Hồn cầm
phong hương hình dáng xuân tàn
Ngày dần
buông trôi sầu vắng cung đàn
Từ người
ra đi chờ vắng tin người
Từ người
ra đi là hết mơ rồi.
Chữ phong hương các ca sỹ thường
hát là phong sương và hầu hết các bản nhạc cũng in như vậy.
Nhưng bản in trong hồi ký Phạm Duy nhớ là phong hương,
và theo tôi như thế hợp lý và hay hơn. Phong sương là “gió
sương”, không ăn nhập gì ở đây. Còn phong hương là “gói kín
mùi hương” lại. Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàn có thể
hiểu là: hương sắc mùa xuân đã được phong kín trong hồn đàn, nhìn vào cây đàn
chỉ thấy hình dáng xuân tàn mà thôi, ngụ ý rằng người đẹp đã đi rồi, tất cả đều
tàn tạ, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan[3]. Từ nỗi ngậm
ngùi ấy, tác giả chuyển nhanh sang hồi tưởng:
Cung thương là tiếng đàn
Cung nam
là tiếng người
Ai oán
khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi.
Mối tình cũ như tiếng đàn, tuy đã tắt nhưng còn ngân
mãi trong lòng người. Nhưng tiếng đàn ấy không tươi vui nữa mà buồn xa vắng, buồn
tái tê:
Cung đàn ngân buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân, buồn như lúc xuân sắp
tàn
Ơi đàn
xưa còn vương nhắc chi tới người
Lòng ta
tắt bao thắm tươi u hoài duyên đưa.
Và cái
nhức nhối nhất là quá khứ không chịu trở thành kỷ niệm, nó cứ sống mãi cùng hiện
tại, đặc biệt khi xuân về:
Chiều
năm xưa
gót
hài khai hoa/ mắt huyền lưu xuân/ dáng hồng thơm hương
Chiều
năm nay
bóng
người khơi thương/ tiếng đàn gieo oan/ giấc mộng chàng Trương
Về ba hình ảnh trong câu nhạc thứ nhất, nhạc sỹ Phạm
Duy viết:
“Những cô hái mơ, cô bán hoa, cô hàng nước, cô lái
đò, cô láng giềng xuất hiện trong các bản nhạc tình thuở đó làm sao mà có được
những gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương như
trong bản Cung đàn xưa của Văn Cao? Chỉ cần có 12 chữ và chỉ để
xưng tụng một người tình tưởng tượng mà thôi, Văn Cao đã đưa nhạc tình Tiền chiến
lên tới một cao độ vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm[4]”.
Cái “khuôn sáo cũ mèm” mà Phạm Duy nói đến có lẽ là
những cô hái mơ, cô bán hoa,… trên kia vẫn chưa thực sự thoát khỏi tính ước lệ
của thơ ca cổ điển. Ca khúc tình yêu trong nhạc Tiền chiến phát triển theo quy
luật tương tự Thơ mới. Nghĩa là ban đầu chỉ dám nói đến thứ tình yêu xa xăm, nặng
về tưong tư sầu mộng:
Em chỉ
là người em gái thôi
Người
em sầu mộng của muôn đời
Tình
anh như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc
đêm thu nét tuyệt vời.
(Lưu Trọng Lư)
Và không phải ngẫu nhiên mà những bài hát đầu tiên của
nền Tân nhạc (nhạc Tiền chiến), đã phổ nhạc một số bài thơ đầu của Thế Lữ, Nguyễn
Bính. Nhưng Văn Cao xuất hiện đã đem đến cho nhạc tình Tiền chiến một hơi thở mới:
cái đắm say nồng nàn. Giống như Xuân Diệu đã đem đến cái đắm say nồng nàn cho
Thơ mới vậy.
Trở lại câu thơ – nhạc nói
trên của Văn Cao, có thể nói, người nhạc sỹ – thi sỹ trẻ Văn Cao đã đặt người
yêu của mình ở vị trí tuyệt mỹ mà vẫn thực. Nó vừa ước lệ theo kiểu Làn
thu thuỷ nét xuân sơn[5] của
văn chương cổ điển lại vừa gợi tả một người con gái có dáng, có da, có
nét, có cả chất sexy nữa. Người đẹp lướt qua như một làn gió, không
hình không ảnh mà lại rõ mồn mộtbởi cảnh hoa nở tưng bừng theo gót
chân nàng. Mắt nàng sâu thẳm chứa đầy một mùa xuân tình ái. Nàng đi đến đâu
ngát thơm đến đấy. Nàng lãng đãng xa xôi từ chốn Bồng Lai đến
với “gót hài khai hoa”, rồi tình tứ mặn mà với “mắt huyền lưu
xuân” và thoắt cái, nồng nàn say đắm với “dáng hồng thơm
hương”. Nhưng cái nồng nàn say đắm của Văn Cao cũng khác Xuân Diệu. Nếu Xuân Diệu
“Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực” – thiên về tả thực, nhiều tính nhục cảm, thì
Văn Cao thiên về gợi cảm, cho nên nồng nàn mà vẫn thanh tao, trần
thế mà vẫn là người của chốn Đào Nguyên. Ta cảm nhận cái thơm tho của ái tình
hơn là mùi vị của khứu giác.
Nàng đến nhanh mà đi cũng rất nhanh. Chiều năm xưa vừa
mới rực rỡ thì chiều năm nay đã điêu tàn: Chiều năm nay/ bóng người khơi thương/ tiếng đàn gieo oan/ giấc mộng chàng
Trương. Người đi rồi, chỉ còn lại bóng, khơi thêm vết thương lòng. Người đi
rồi, tiếng đàn bây giờ là tiếnggieo oan (cất lên lời an oán). Người
đi rồi, bây giờ ta chỉ yêu bằng mộng, giấc mộng của chàng Trương, giấc mộng xa
vời, không bao giờ thành.
Theo hồi ký của Phạm Duy, thì chữ “gieo oan” được
chép là “giao hoan”. “Tiếng đàn giao hoan” phải chăng là tiếng đàn gợi nhớ cuộc giao hoan? Nghĩa đen của từ này là “cùng vui với nhau” (Thêm nến giá nối hương bình / Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh
giao hoan - Truyện Kiều), ở đây có thể hiểu là tiếng
đàn gợi nhớ cuộc gặp gỡ đẹp của đôi lứa. Chàng nhấm nháp khoảnh khắc yêu đương cũ, rõ ràng có thực mà bây giờ như trong mơ, như mối tình của chàng Trương
Chi thuở trước. Và nếu ta hiểu là tiếng đàn “giao hoan” thì “giấc mộng chàng Trương” cũng bớt phần bi luỵ. Nó
như một khát vọng về hạnh phúc không thể với tới, chứ không phải một tình yêu đơn phương.
Đoạn kết trở lại nỗi ngậm ngùi
thấm thía khi đã biết chắc cuộc tình này một đi không trở lại.
Giờ còn
mong chi người hát theo đàn
Giờ còn
mong chi hợp cánh hoa tàn
Lời đàn
năm xưa xe kết đôi lòng
Lời đàn
năm nay đôi lứa xa vời
Khi hôn
hoàng xuống dần
Trăng
lên vàng mái lầu
Nghe
thoáng tiếng kinh cầu xa xa
Ngàn
lau thấp thoáng bóng kinh kỳ sầu bao la.
Bài này chưa phải là đỉnh cao nhất trong nhạc tình của
Văn Cao trước Cách mạng. Khát vọng tình yêu và hạnh phúc còn được Văn Cao tiếp
tục phát triển ở hai tuyệt tác Trương Chi và Thiên
Thai.Tuy nhiên, nếu so sánh với nỗi “thất tình” trong Trương Chi và Thiên
Thai thì trong Cung đàn xưa, ít bi luỵ hơn. Cung
đàn xưa chủ yếu vẫn là dư vị ngọt ngào của mối tình đầu. Duyên đã lỡ
nhưng tình thì còn mãi. Hạnh phúc tuy ngắn ngủi nhưng thực sự đã chạm đến chứ
không phải là điều huyễn hoặc.
Có nhiều ca sỹ hát bài này, mỗi người mỗi vẻ, nhưng
Ánh Tuyết thật xứng đáng là người giải nhất chi nhường cho ai[6]. Với giọng
ca Cao như thông vút, buồn như liễu[7], với ánh mắt
u buồn, sâu thẳm, Ánh Tuyết nồng nàn mà không suồng sã, buồn mà không bi luỵ,
người nghe cảm nhận một tình yêu vừa lãng mạn cổ điển lại vừa đắm say hiện đại.
(Bài đã đăng TC Thế giới trong ta)
Chú thích :
[1] VDC Suối mơ – Hãng phim Trẻ, 1999
No comments:
Post a Comment